Powered By Blogger

Thứ Bảy, 31 tháng 8, 2013

CHỖ CUỐI (1.9.2013 – Chúa nhật 22 Mùa Thường niên, Năm C)

CHỖ CUỐI
Lời Chúa: Lc 14, 1.7-14
Một ngày sabát kia, Ðức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa: họ cố dò xét Người. Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn chỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: ‘Xin ông nhường chỗ cho vị này’. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: ‘Xin mời ông bạn lên trên cho’. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.”
Rồi Ðức Giêsu nói với kẻ đã mời Người rằng: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng kêu bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.”
Suy nim:
Phần lớn những cuộc tranh chấp ở đời
thường xoay quanh những chiếc ghế.
Lúc đầu, ghế tượng trưng cho chức vụ, chức năng.
Dần dần, nó tượng trưng cho chức quyền, chức tước.
Ai cũng thích ghế cao và bảo vệ ghế của mình.
Người Pharisêu thích ngồi ghế danh dự trong hội đường.
Giacôbê và Gioan thích ngồi hai bên tả hữu Thầy Giêsu.
Philatô cho đóng đinh Ðức Giêsu vô tội, vì ông sợ mất ghế.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy các khách dự tiệc
cứ chọn ghế nhất mà ngồi.
Con người vẫn bị ám ảnh bởi những chiếc ghế.
Chiếu trên, chiếu dưới chẳng phải là chuyện xưa ở đình làng.
Ngày nay vẫn có những bạn trẻ
cố kiếm được mảnh bằng và chỗ làm lương cao
để ung dung hưởng thụ một chỗ đứng trong xã hội.
“Ai tôn mình lên, dù lộ liễu hay kín đáo,
sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống.
Ai thực tâm hạ mình xuống qua việc phục vụ,
sẽ được Thiên Chúa tôn lên.”
Ðức Giêsu mời ta vượt qua thói háo danh, để sống khiêm tốn.
Khiêm tốn không phải là giả vờ tự hạ để được nâng lên.
Khiêm tốn không phải là coi thường mình hay sợ người khác.
Khiêm tốn không phải là rụt rè, không dám nhận trách nhiệm.
Khiêm tốn là biết mình đã nhận tất cả từ Chúa,
và lớn lên mỗi ngày nhờ tha nhân.
Người khiêm tốn không sợ chức vụ cao hay ghế nhất.
Chiếc ghế không phải là mục đích họ cần chiếm được,
nhưng là phương tiện để phục vụ mọi người.
Chức vụ cho họ cơ hội cúi xuống thật gần
với nỗi đau của nhân loại đang chờ họ giúp đỡ.
Người khiêm tốn không tự tìm vinh quang cho mình,
họ hồn nhiên vô tư để Thiên Chúa tự do định liệu.
Chúng ta dễ đánh giá người khác dựa trên ghế của họ.
Nhưng một người quét đường có lương tâm
còn giá trị hơn một giám đốc tham ô lãng phí.
Ðức Giêsu nói đến việc chọn khách để mời ăn.
Ngài khuyên nên mời những kẻ nghèo khó, tật nguyền,
hơn là mời những người ruột thịt, thân quen, giàu có.
Ngài đưa chúng ta vượt qua óc tính toán vụ lợi,
để đi vào thế giới của những người bất hạnh.
Chúng ta thường thích giao du với người có thế giá,
có học thức, có của cải, để dễ nhờ vả khi cần.
Chính vì thế xã hội vẫn còn nhiều người bị bỏ rơi,
vì nghèo túng, kém cỏi về mọi mặt.
Hãy ra khỏi thế giới quen thuộc của mình,
để đến với những người cần chúng ta hơn.
Bao trẻ em ở vùng xa cần giáo viên.
Bao bệnh viện ở các huyện cần bác sĩ.
Ước gì chúng ta hạnh phúc khi cho không tính toán
vì thấy mình đã nhận được gấp trăm điều mình cho.

Thứ Năm, 29 tháng 8, 2013

Vừa mang đèn, vừa mang dầu (30.8.2013 – Thứ sáu Tuần 21 Mùa Thường niên)

Vừa mang đèn, vừa mang dầu
Lời Chúa: Mt 25, 1-13
Một hôm, Ðức Giêsu kể cho các môn đệ nghe dụ ngôn này: “Nước Trời cũng giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể. Trong mười cô đó, thì có năm cô dại và năm cô khôn. Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. Còn những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo. Vì chú rể đến chậm, nên các cô thiếp đi, rồi ngủ cả. Nửa đêm, có tiếng la lên: “Kìa chú rể, ra đón đi!” Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy, và sửa soạn đèn. Các cô dại nói với các cô khôn rằng: “Xin các chị cho chúng em chút dầu của các chị, vì đèn của chúng em tắt mất rồi!” Các cô khôn đáp: “Sợ không đủ cho chúng em và các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn”. Ðang lúc các cô đi mua, thì chú rể tới, và những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại. Sau cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến gọi: “Thưa Ngài, thưa Ngài! mở cửa cho chúng tôi với!” Nhưng Người đáp: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!” Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.”
Suy nim:
Chẳng ai nghĩ đi ăn sinh nhật là để chết.
Chẳng ai nghĩ mình sẽ chết vào ngày sinh nhật của mình.
Vụ cháy ở nhà hàng Hoàng Hôn đường Ðiện Biên Phủ,
nhắc cho ta về sự bất ngờ của cái chết.
Cái chết đến khi mọi người đang say ngủ,
lúc 3 giờ sáng ngày 17-10, sau bữa tiệc sinh nhật.
Chín người chết vì không thể ra khỏi căn nhà bốc cháy.
Ðoạn Tin Mừng hôm nay nhắc ta rằng Chúa đến bất ngờ,
như chú rể đến lúc nửa đêm.
Chúng ta phải sẵn sàng như năm cô phù dâu khôn ngoan,
hân hoan ra đón chú rể, tay cầm đèn thắp sáng.
Thật ra năm cô dại chẳng phải là hạng vô tích sự.
Chắc họ đã lo trang điểm cho mình.
Khi biết mình hết dầu, họ đã lo vay mượn.
Và khi bị từ chối, họ đã đi mua dầu giữa đêm khuya.
Lúc có đèn sáng, họ đã gõ cửa xin vào dự tiệc cưới.
Nhưng muộn quá!
“Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!”
Chẳng nên đổ lỗi cho chú rể đến chậm,
khiến đèn của mình hết dầu.
Chẳng nên trách móc các cô khôn ngoan,
vì họ cần có đủ dầu để thắp sáng cho tiệc cưới giữa đêm khuya.
Chỉ nên nhận mình đã chểnh mảng,
không mang dầu dự trữ.
Có đèn. Không đủ!
Ðèn cần phẳi sáng, sáng lúc Chúa đến bất ngờ.
Như thế cũng có nghĩa là phải luôn luôn sáng.
Mang danh là Kitô hữu. Không đủ!
Tham gia vào một số sinh hoạt tôn giáo. Không đủ!
Cần phải sống hết mình những đòi hỏi của Chúa.
Ðòi hỏi lớn nhất là yêu thương.
Trong Hội Thánh, vẫn có những cô khôn và cô dại,
có những người đèn đã hết dầu từ lâu...
Cần chăm chút cho ngọn đèn đời mình.
Cần nuôi dưỡng nó bằng thứ dầu của tình yêu bao dung,
của niềm hy vọng vững vàng, của niềm tin sắt đá.
Cần châm thêm dầu mỗi ngày...
Hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.
Tỉnh thức không phải là không ngủ...
Cả mười cô trinh nữ phù dâu đều đã thiếp ngủ.
Tỉnh thức không phải là suốt ngày đọc Lời Chúa,
nhưng là để Lời Chúa chi phối mình suốt ngày.
Chẳng ai biết lúc nào tận thế.
Chẳng ai biết giờ chết của mình.
Chẳng ai biết hôm nay Chúa hẹn mình ở đâu,
trong biến cố nào, nơi con người nào.
Chính vì thế phải tỉnh thức luôn, cả trong giấc ngủ.
Người ta biết mình bắt đầu tỉnh thức,
khi nhận ra mình đã mê muội.

Thứ Ba, 27 tháng 8, 2013

Có vẻ công chính (28.8.2013 – Thứ tư Tuần 21 Mùa Thường niên)

Có vẻ công chính
Lời Chúa: Mt 23, 27-32
Khi ấy, Đức Giêsu khiển trách các kinh sư và người Pharisêu rằng: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế.  Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác! Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người xây mồ cho các ngôn sứ và tô mả cho những người công chính. Các người nói: “Nếu như chúng ta sống vào thời của tổ tiên, hẳn chúng ta đã không thông đồng với các ngài mà đổ máu các ngôn sứ.” Như vậy, các người tự làm chứng rằng các người đúng là con cháu của những kẻ đã giết các ngôn sứ. Thì các người đổ thêm cho đầy đấu tội của tổ tiên các người đi!”
Suy nim:
Ở xứ Paléttin, các ngôi mộ thường được quét vôi màu trắng,
để người Do thái dễ nhận ra và tránh xa.
Đặc biệt trước lễ Vượt qua, mộ được quét vôi lại,
vì có đông đảo khách hành hương tuốn về quê dự lễ.
Ai bất cẩn đụng vào mộ là bị trở nên ô uế trong bảy ngày (Ds 19, 16).
Đối với người Do thái, ngôi mộ là điều nên tránh,
vì bên trong đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô nhơ (c. 27),
tuy bên ngoài có vẻ sạch sẽ tốt đẹp.
Đức Giêsu đã dám ví các kinh sư và người Pharisêu với ngôi mộ,
vì bên ngoài họ có vẻ công chính trước mặt người ta,
nhưng bên trong thì đầy đạo đức giả và gian ác (c. 28).
Có sự tương phản giữa cái có vẻ bên ngoài và cái thực tế bên trong.
Bên ngoài không diễn tả bên trong, nhưng làm hiểu sai cái bên trong.
Tất cả nỗ lực của chúng ta là làm cho bên ngoài và bên trong nên một,
để ai thấy bên ngoài của ta đều biết được điều sâu kín bên trong.
Đức Giêsu còn đề cập đến một sự giả hình khác (cc. 29-32),
đó là việc các người Pharisêu xây mồ, tô mả cho các ngôn sứ thời xưa.
Họ khẳng định mình không can dự vào tội giết các ngôn sứ của cha ông họ.
Tiếc thay, họ lại can dự vào tội giết các ngôn sứ do Đức Giêsu sai đến,
qua đó họ cho thấy mình đúng là người thuộc dòng dõi của cha ông,
Khi đọc toàn bộ chương 23 của Tin Mừng Mátthêu
về những lời phê phán của Đức Giêsu đối với giới lãnh đạo tôn giáo,
chúng ta có thể bị sốc, vì chúng quá nặng nề.
Liệu Đức Giêsu hiền lành có nói nguyên văn những lời như thế không?
Điều cần biết là không phải người Pharisêu nào cũng giả hình.
Có nhiều người thực sự thánh thiện đạo đức,
và Đức Giêsu đã có tương quan tốt với một số người trong nhóm.
Cũng nên nhớ là Ngài không giảng cả chương 23 trong một lần,
nhưng trong nhiều dịp khác nhau, và Mátthêu gom lại thành một chương.
Cuối cùng không nên quên là hầu chắc giọng điệu gay gắt của chương này,
là do có sự căng thẳng giữa Hội Thánh Chúa và Hội đường Do thái.
Vào thời Mátthêu viết Tin Mừng này, có những Kitô hữu bị bách hại,
bị đánh đòn, bị giết và đóng đinh bởi người Do thái (Mt 23, 34).
Bởi đó những lời của Đức Giêsu nhắm vào người Pharisêu ngày xưa,
lại trở thành lời nhắc nhở chúng ta hôm nay,
những người sống trong Hội Thánh và những người lãnh đạo.
Thói giả hình về đạo đức thời nào và ở đâu cũng có.
Nó tạo ra một bầu khí dối trá trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân.
Hội Thánh vẫn muốn cho đọc bài Tin Mừng gây sốc này
vì các Kitô hữu vẫn bị cám dỗ giữ đạo bên ngoài mà không sống đạo.
Thật ra chúng ta chỉ có thể rao giảng Tin Mừng cho con người hôm nay
khi những khoảng cách giữa lời nói và hành động được xóa bỏ,
khi người ta thấy sự thống nhất trong lối sống của chúng ta,
khi mọi mặt nạ được cởi ra, và sự thật được tỏ hiện.

Thứ Hai, 26 tháng 8, 2013

Bên trong, bên ngoài (27.8.2013 – Thứ ba Tuần 21 Mùa Thường niên)

Bên trong, bên ngoài
Lời Chúa: Mt 23, 23-26
Khi ấy, Đức Giêsu khiển trách các kinh sư và người Pharisêu rằng:“Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công bình, lòng nhân và thành tín. Phải làm các điều này mà không được bỏ các điều kia. Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà. Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện trộm cắp và vô độ. Hỡi người Pharisêu mù quáng kia, hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch.”
Suy nim:
Đức Giêsu đã từng nói về tám Mối Phúc trong Bài Giảng trên núi.
Trong chương này, Ngài sẽ nói với các kinh sư và nhóm Pharisêu bảy lần:
“Khốn cho các ngươi!”
Đây không phải là lời chúc dữ cho bằng là lời trách than, buồn tiếc,
vì những sự giả hình, che đậy nơi một số nhà lãnh đạo Do thái giáo.
Nhưng giả hình không phải chỉ là bệnh của một số kinh sư ngày xưa.
Nó là bệnh của những Kitô hữu trong Hội Thánh của Mátthêu sau năm 70.
Và nó cũng là bệnh của những Kitô hữu thuộc thế kỷ hai mươi mốt.
“Khốn cho các ngươi!” là một lời cảnh báo đối với chính bản thân tôi.
Bệnh được nhắc đến trong lời Khốn cho thứ tư (c. 23)
là bệnh quá tập trung vào điều phụ thuộc mà bỏ quên điều cốt yếu.
Có một số người Pharisêu bày tỏ sự đạo đức của mình
qua việc nộp thuế thập phân về những thứ rau lặt vặt họ trồng trong vườn.
Ba thứ rau thơm: bạc hà, thì là, rau húng, đúng ra không phải tính thuế,
vì chỉ phải nộp thuế về hoa lợi của vụ mùa, của vườn cây ăn trái thôi.
Nhưng có người đã nộp thuế về mọi thứ rau cỏ trong vườn (Lc 11, 42).
Thuế thập phân chỉ đòi nộp một phần mười sản phẩm nông nghiệp làm được,
để giúp việc thờ phượng Chúa trong Đền thờ và các người làm việc tại đó.
Đức Giêsu không cản chuyện nộp thuế về những điều lặt vặt (c. 23).
Ngài chỉ tiếc là những chuyện nặng ký hơn trong Lề Luật
như công lý, lòng nhân và thành tín, lại bị bỏ quên (c. 23).
Ba điều này đều được các ngôn sứ nhắc nhở (Is 1, 17; Hs 6, 6; Hb 2, 4).
Ngôn sứ Mikha đã viết một câu nổi tiếng (Mk 6, 8):
“Đức Chúa đòi anh em điều gì nếu không phải là sống theo công lý,
mến chuộng lòng nhân và khiêm hạ đi với Thiên Chúa của anh em.”
Có thể thái độ đạo đức giả bắt nguồn từ thói háo danh và sợ khó.
Nộp thuế dễ được người ta thấy hơn
và cũng khỏi phải hoán cải nơi bề sâu của lòng mình.
Tập trung vào những cái lặt vặt để khỏi phải áy náy về chuyện hệ trọng.
Làm tốt một chuyện nhỏ, nhưng lại làm hỏng một chuyện rất lớn.
Bệnh được nhắc đến trong lời Khốn cho thứ năm (c. 25)
là bệnh quá coi trọng cái bên ngoài mà coi thường cái bên trong.
Một số người Pharisêu loay hoay với chuyện lau sạch bên ngoài chén đĩa.
Họ sợ mình trở nên ô uế nếu sử dụng đồ chưa được rửa kỹ.
Tiếc thay, họ không để ý đủ đến sự nhơ uế bên trong tâm hồn.
Mà đó mới là thứ nhơ uế thật sự đáng quan tâm.
Có nguy cơ là sự sạch sẽ bên ngoài nhằm che đậy sự nhơ uế bên trong,
và đánh lừa cái nhìn của người khác, khiến họ lầm tưởng.
Thật ra trở về với lòng mình để nhận ra những ô nhơ, thật là điều khó.
Rửa tay trước khi ăn, rửa bát đĩa trước khi dùng, là điều dễ hơn nhiều.
Trở vào lòng mình, ta dễ bắt gặp bao tham lam, gian dối, thèm muốn vô độ.
Những điều ấy ta không muốn nhìn nhận có nơi mình.
Đức Giêsu mời chúng ta tìm kiếm sự tinh tuyền bên trong trước đã,
rồi mới để ý đến cái sạch sẽ bên ngoài sau (c. 26).
Xin Chúa cho chúng ta đừng bị đui mù, nhưng được sáng mắt (cc. 24. 26),
để biết phân biệt cái chính, cái phụ, cái trong, cái ngoài.

Thứ Bảy, 24 tháng 8, 2013

CỬA HẸP (25.8.2013 – Chúa nhật 21 Mùa Thường niên, Năm C)

CỬA HẸP
Lời Chúa: Lc 13, 22-30
Hồi ấy, trên đường lên Giêrusalem, Ðức Giêsu đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy. Có kẻ hỏi Người: Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” Người bảo họ: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được. Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói: ‘Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào!’, thì ông sẽ bảo anh em: ‘Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến!’ Bấy giờ anh em mới nói: ‘Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi’. Nhưng ông sẽ đáp với anh em: ‘Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!’ Ở đó anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Ápraham, Ixaác và Giacóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.”
Suy nim:
Cuộc đời thật ra gồm nhiều cửa hẹp.
Cửa hẹp khi thi vào đại học.
Cửa hẹp khi đi xin việc làm.
Cửa hẹp khi muốn đưa trái banh vào lưới.
Sống là phấn đấu bước qua nhiều cửa hẹp.
Cửa càng hẹp, càng phải cố gắng nhiều.
Cửa hẹp mà vào được mới quý.
Nếu thiên đàng có cửa,
thì hẳn vào cửa thiên đàng chẳng phải như dạo chơi.
“Hãy chiến đấu để vào qua cửa hẹp” (Lc 13,24),
vì “cửa hẹp dẫn đến sự sống” (Mt 7,14).
Chiến đấu ở đây là chiến đấu với chính mình,
với cái tôi cồng kềnh của mình,
nặng nề vì những vun vén cá nhân,
phình to vì tự hào và tham vọng.
Thật ra cửa vào sự sống không hẹp
nhưng hẹp vì cái tôi của tôi to quá.
Cần nỗ lực liên tục để giữ cho cái tôi nhỏ lại,
khiêm hạ trước Thiên Chúa, cởi mở trước anh em.
Cần có một cái tôi như trẻ thơ
mới được vào Nước Trời (Mt 18,3).
Cái tôi của chúng ta luôn có khuynh hướng bành trướng
nhờ thu tích nơi mình tri thức, tiền bạc, khả năng.
Cả kinh nghiệm, tuổi tác, đạo đức, chức vụ,
cũng có thể làm cái tôi xơ cứng và khép lại.
Ðể “người lớn” trở nên hồn hậu như trẻ thơ,
cần phải biến đổi và tự hạ (x. Mt 18,3-4).
Ðây thật là một cuộc chiến với chính mình.
Khi hủy mình ra không, ta sẽ dễ đi qua cửa hẹp.
Nhiều người Do Thái đến chậm, khi cửa đã đóng.
Họ gõ cửa và đòi vào.
Họ tưởng thế nào mình cũng có một chỗ nơi bàn tiệc,
bởi lẽ mình đã từng ngồi đồng bàn với Ðức Giêsu,
và đã nhiều lần nghe Ngài giảng dạy.
Tiếc thay, tương quan đó lại quá hời hợt
đến độ Chúa phải lên tiếng nói với họ:
“Ta không biết các anh từ đâu đến!”
Chúa cũng có thể nói với chúng ta như vậy,
dù chúng ta đã dự lễ, rước lễ, nghe giảng, tĩnh tâm...
Chúa vẫn không quen biết chúng ta
vì chúng ta chẳng để cho Ngài đi vào đời mình.
Chúng ta vẫn là những người xa lạ trước mắt Chúa.
Ðời sống Kitô hữu là một cuộc chiến đấu liên tục.
Chiến đấu để qua cửa hẹp nhờ bỏ cái tôi ích kỷ.
Chiến đấu để vào trước khi cửa đóng lại.
Cứu độ là một ơn Chúa ban,
nhưng ta phải nỗ lực mới dám đưa tay đón nhận.
Ước gì chúng ta đừng tự hào vì đã biết Chúa,
nhưng phải làm sao để Chúa biết ta và reo lên:
“Ðây là đầy tớ tốt lành và trung tín.”

Thứ Sáu, 23 tháng 8, 2013

Cứ đến mà xem (24.8.2013 – Thứ bảy - Thánh Barthôlômêô, tông đồ)

Cứ đến mà xem
Lời Chúa: Ga 1, 45-51
Khi ấy, ông Philípphê gặp ông Nathanaen và nói: “Ðấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp: đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nadarét.”  Ông Nathanaen liền bảo: “Từ Nadarét, làm sao có cái gì hay được?” Ông Philípphê trả lời: “Cứ đến mà xem!” Ðức Giêsu thấy ông Nathanaen tiến về phía mình, liền nói về ông rằng: “Ðây đích thật là một người Israel, lòng dạ không có gì gian dối.” Ông Nathanaen hỏi Người: “Làm sao Ngài lại biết tôi?” Ðức Giêsu trả lời: “Trước khi Philípphê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi.” Ông Nathanaen nói: “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Israel!” Ðức Giêsu đáp: “Vì tôi nói với anh là tôi đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin! Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa.” Người lại nói: “Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người.”
Suy nim:
Thầy Giêsu là người tìm thấy Philípphê và gọi anh đi theo (Ga 1, 43).
Sau khi gặp Thầy, Philípphê đi tìm Nathanaen.
Ông rủ bạn mình đến gặp Thầy Giêsu.
Nathanaen không được nhắc tên trong mọi danh sách nhóm Mười Hai.
Vào thế kỷ thứ 9, có người coi Nathanaen là Batôlômêô,
lý do vì trong mọi danh sách, Batôlômêô là tên luôn đi ngay sau Philípphê.
Chúng ta không chắc Nathanaen có phải là Batôlômêô không.
Nhưng điều đó không quan trọng mấy.
Dù sao Nathanaen cũng là một người môn đệ đã theo Thầy Giêsu,
và đã có mặt trong nhóm gặp Đấng phục sinh bên bờ hồ (Ga 21, 2).
Bài Tin Mừng hôm nay cũng có thể cho ta thấy ít nhiều
về khuôn mặt của vị tông đồ mà chúng ta mừng kính.
Sau khi được Thầy Giêsu tìm thấy và mời: “Anh hãy theo tôi” (c. 43).
Philípphê đã theo Thầy và hẳn đã ở lại với Thầy một thời gian.
Chính sự gần gũi và quen biết này
đã khiến ông tin Thầy là Đấng được tất cả Sách Thánh nói tới (c. 45).
Trong niềm vui sướng, Philípphê tìm thấy Nathanaen, và khoe:
“Chúng tôi đã tìm thấy Đấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ nói tới.”
Đấng ấy có tên là Giêsu, có cha là Giuse, có quê ở Nadarét.
Với một chút thành kiến, Nathanaen đã không thể tin được chuyện này.
Một ngôi làng vô danh như Nadarét, làm sao có thể sinh ra điều tốt được?
Nhưng Philípphê không chịu bỏ cuộc, ông tiếp tục mời gọi bạn mình,
như Đức Giêsu đã mời hai môn đệ đầu tiên: “Hãy đến mà xem” (cc. 39. 46).
Cuối cùng Nathanaen đã nhận lời, đã đến và đã xem thấy.
Cuộc hạnh ngộ diễn ra giữa Thầy Giêsu với Nathanaen.
Bằng cái nhìn thấu suốt, Thầy nhận ra cái tốt đẹp nơi con người anh:
“Đây là một người Israel đích thật, nơi anh không có gì gian dối” (c. 47).
Quả là một lời khen bất ngờ đối với Nathanaen, người mới gặp Thầy lần đầu.
Anh ngỡ ngàng khi thấy Thầy biết rõ bề sâu của lòng mình.
“Làm sao Ngài lại biết tôi?” (c. 48).
Làm sao Ngài biết tôi là người không thích quanh co, gian dối?
Đức Giêsu bảo Ngài đã thấy anh dưới cây vả, trước khi Philípphê gọi anh.
Nathanaen nhanh chóng tuyên xưng niềm tin vào Thầy Giêsu (c. 49).
Và Thầy hứa sẽ cho anh thấy trời mở ra để trò chuyện với con người.
Thầy như cái thang bắc từ trời, để các thiên thần lên xuống (c. 51),
để Thiên Chúa và con người gặp  nhau.
Như Nathanaen, chúng ta cũng trở nên môn đệ nhờ có người giới thiệu.
Chỉ ai đã thực sự gặp mới hăng hái đi giới thiệu Chúa với người khác.
Chúa Giêsu hôm nay vẫn qua người khác mà gọi tôi theo Ngài.
Nhưng cuối cùng chính tôi vẫn phải gặp mặt Ngài và để Ngài chinh phục.
Dần dần Ngài dắt tôi vào mầu nhiệm của con người Ngài.
Ngài là Giêsu Nadarét, con ông Giuse, và là chính Con Thiên Chúa
Ngài là chiếc thang đưa tôi từ đất lên mà gặp gỡ trời cao.

Thứ Năm, 22 tháng 8, 2013

Điều răn trọng nhất (23.8.2013 – Thứ sáu Tuần 20 Mùa Thường niên)

Điều răn trọng nhất
Lời Chúa: Mt 22, 34-40
Khi nghe tin Ðức Giêsu đã làm cho nhóm Xađốc phải câm miệng, thì những người Pharisêu họp nhau lại. Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Ðức Giêsu để thử Người rằng: “Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Ðức Giêsu đáp: “Ngươi phải yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ðó là điều răn trọng nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy.”
Suy nim:
Theo truyền thống hội đường Do thái, Luật gồm 613 điều răn.
365 điều cấm làm và 248 điều phải làm.
Giữa một rừng điều răn như thế, người thông luật đã hỏi Đức Giêsu:
“Điều răn nào trọng nhất trong Luật Môsê?” (c. 36).
Đức Giêsu đã trả lời bằng một câu trong kinh Shema,
kinh mà người Do thái phải đọc mỗi ngày.
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
với tất cả trái tim ngươi, tất cả linh hồn ngươi, tất cả trí khôn ngươi” (Tl 6, 5).
Và Ngài còn thêm một điều răn thứ hai nữa (c. 39).
“Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình” (Lv 19, 18).
Tất cả Luật Môsê nằm trong hai điều răn đó.
Hai điều răn được gói trong một động từ yêu.
Mọi điều cấm làm và mọi điều buộc làm, đều bắt nguồn từ và qui về tình yêu.
Các bạn trẻ thường nghĩ yêu là chuyện dễ.
Nhưng yêu với tất cả trái tim, tất cả linh hồn, tất cả trí khôn, tất cả sức lực,
nghĩa là yêu với trọn cả con người mình, thì điều đó không dễ.
Đối với người Do thái, trái tim là nơi phát sinh toàn bộ đời sống tinh thần.
Yêu mến Thiên Chúa bằng tất cả trái tim của mình
là để cho Ngài chi phối mọi tư tưởng, mọi ý muốn, mọi tình cảm.
Tất cả đều nhằm làm cho Ngài được mọi người nhận biết và tôn vinh.
Yêu người thân cận như chính mình cũng là điều rất khó.
Có bao người làm chúng ta đau khổ và bị xúc phạm.
Yêu thương và tôn trọng họ đòi một sự từ bỏ mình không nhỏ.
Nhưng chúng ta cũng dễ coi mình là trung tâm và qui tất cả về mình.
Chúng ta lạnh lùng trước nỗi đau, thiếu sẻ chia và độc đoán,
đôi khi dùng tha nhân như phương tiện lót đường để ta tiến thân.
Nói chung, dù yêu Chúa hay yêu người, chúng ta cũng phải ra khỏi mình,
trao đi chính mình và chấp nhận mọi hy sinh mà tình yêu đòi hỏi.
Đức Giêsu đã tóm Luật Môsê trong động từ yêu mến.
Và Ngài đã hoàn thiện Luật này bằng cách đẩy yêu mến đến cùng.
Kitô hữu chẳng những yêu mến Thiên Chúa với trọn con người mình,
mà còn được mời yêu mến Đức Giêsu trên mọi thụ tạo khác,
trên mọi của cải, trên những người ruột thịt, và trên cả mạng sống.
Kitô hữu là người mang mối tình sâu đậm với Đức Giêsu,
“Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20),
đến nỗi họ có thể tuyên xưng như Phêrô: “Thầy biết con mến Thầy.”
Đức Giêsu cũng không chỉ đòi yêu tha nhân như chính mình.
Ngài còn đòi ta phải yêu như Ngài đã yêu (Ga 13, 34-35).
Một tình yêu tha thứ đến vô cùng, một tình yêu đối với cả kẻ thù,
một tình yêu phục vụ như người tôi tớ, một tình yêu dám hiến mạng.
Kitô hữu tự bản chất là người biết yêu và cuộc đời chỉ là tình yêu.
Tình yêu đích thực với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em.
Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa.
Chỉ mong đời tôi đong đưa giữa hai tình yêu đó, để chúng nên một tình yêu.