Powered By Blogger

Thứ Sáu, 30 tháng 11, 2012

Chúa Nhật 1 Mùa Vọng năm C (2/12/2012)


Tin Mừng                                Lc 21,25-28.34-36

25 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : "Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. 26 Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển. 27 Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. 28 Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc."
34 "Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, 35 vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. 36 Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người."

Suy Niệm:

 Chúng ta bắt đầu một năm phụng vụ mới, và mùa đầu tiên của năm phụng vụ là Mùa Vọng. Mùa Vọng là mùa hy vọng, mùa trông mong, mùa chờ đợi, và trong suốt thời gian Mùa Vọng chúng ta được nghe các lời tiên báo : Chúa Giê-su giáng sinh, thời gian cứu độ, Chúa trở lại trong vinh quang. Nhưng đối với chúng ta, ba viễn tượng đó phải được gói ghém lại thành một niềm tin và một hy vọng duy nhất. Vì thế, ngay ngày Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng, Giáo hội cho chúng ta nghe đọc những lời Chúa Giê-su nói về ngày Chúa quang lâm, tức là ngày tận thế, ngày cánh chung với lời khuyên phải luôn tỉnh thức.
     Ngày Chúa quang lâm có nghĩa là ngày Chúa trở lại phán xét toàn thể nhân loại. Trong Cựu Ước, ý niệm về sự phán xét của Thiên Chúa chúng ta thấy rất nhiều : ngay từ vườn địa đàng, ông bà nguyên tổ đã bị xét xử; hình ảnh hủy diệt hai thành Sô-đô-ma và Gô-mô-ra, vụ lụt đại hồng thủy hay cuộc thiêu hủy dân Ca-na-an… đều nói lên ý nghĩa của sự phán xét. Dầu sao đó cũng chỉ là những dấu hiệu nhắc nhở mọi người phải cẩn thận và chuẩn bị sẵn sàng. Sách Khôn Ngoan còn cho biết cụ thể hơn : vào ngày cuối cùng, Thiên Chúa sẽ phán xét kẻ lành người dữ. Như vậy, chắc chắn sẽ có phán xét và cuộc phán xét này xảy ra như một biến cố cuối cùng của lịch sử nhân loại.
     Đến thời Tân Ước, tức là vào thời Chúa Giê-su, người Do Thái vẫn luôn tin tưởng sẽ có ngày phán xét chung, và chính Chúa Giê-su cũng đã củng cố đức tin cho họ về ngày đó, nhưng Ngài đổi mới một số điều, đó là chính Ngài là quan án, là thẩm phán, và tiêu chuẩn xét xử là thái độ của mỗi người đối với chính Ngài. Đọc Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giê-su đã giảng dạy nhiều lần nhiều điều ám chỉ về phán xét, chẳng hạn Chúa nói các thành thị không chịu nghe lời Chúa sẽ bị xét xử, mỗi người sẽ bị xét xử về tất cả những gì họ đã làm cho tha nhân. Chúa dùng nhiều dụ ngôn như cỏ lùng, lưới cá, người quản lý, nén bạc...để nói về phán xét, và Chúa còn nói rõ vào ngày đó Chúa sẽ phân loại mọi người như ông chủ phân loại chiên và dê.
     Như vậy, Kinh Thánh đã cho chúng ta biết có phán xét, chắc chắn sẽ có, nhưng chúng ta không biết được khi nào sẽ xảy đến, không ai biết trước, vì thế, phải tỉnh thức, phải chuẩn bị sẵn sàng. Nghĩa là ngày đó sẽ xảy đến bất thần, đột ngột, sẽ chụp xuống bất ngờ như cái lưới chụp xuống bầy chim sẻ đang ăn hay chụp xuống đàn cá đang nhởn nhơ dưới nước thế nào thì biến cố tận thế cũng sẽ chụp xuống mọi người trên mặt đất như vậy. Không ai biết được ngày đó là ngày nào, chỉ một Thiên Chúa biết mà thôi, một mình Ngài quyết định khi nào Ngài trở lại lần thứ hai, và chỉ khi nào ngày đó xảy ra thì người ta mới biết được, chứ không ai biết trước.
     Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su chỉ nói đến những dấu hiệu báo trước biến cố tận thế, Chúa không nói rõ khi nào, cho nên bất cứ ai quả quyết năm này năm nọ sẽ tận thế là hoàn toàn không đúng, đó chỉ là phỏng đoán mà thôi. Tuy nhiên, Chúa khẳng định Chúa sẽ đến trong vinh quang, nghĩa là chắc chắn sẽ có tận thế, vì vậy, Chúa bảo chúng ta phải sống thế nào : hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn.
     Chúng ta phải tỉnh thức, nghĩa là đừng để cho những cái tạm thời, trần tục chi phối, làm lu mờ tâm trí, làm quên chủ đích chính của cuộc đời, trái lại, phải sử dụng những cái đời tạm này để chiếm được đời sống vĩnh cửu. Rồi chúng ta phải cầu nguyện, nghĩa là chu toàn mọi bổn phận tôn giáo đối với Thiên Chúa, để sống thân mật với Chúa và xin Chúa những ơn trợ giúp cần thiết, vì không có ơn Chúa chúng ta không thể làm gì được : “Không thầy đố mày làm nên”, không có Chúa chúng ta chẳng làm nên chuyện gì cả.
     Tóm lại, ngày Chúa Ki-tô quang lâm, ngày Chúa trở lại lần thứ hai, cũng là ngày cánh chung, ngày tận thế ... là ngày Thiên Chúa biểu dương uy quyền và vinh quang của Ngài, đồng thời cũng là ngày phân xử công minh cuộc đời mỗi người về những năm tháng sống ở trần gian.
     Cho nên, điều quan trọng là mỗi người phải chuẩn bị cho mình một sự nghiệp xứng đáng ngay ở đời này. Chúng ta vẫn nghe nói : “trâu chết để da, người ta chết để tiếng”, “cha mẹ hiền lành để đức cho con”, “không công danh thời nát với cỏ cây”. Đúng thế, chúng ta chết nhưng không thể bị xóa bỏ như cỏ cây hoa lá hay như dụng cụ hư hỏng bị vứt bỏ, chúng ta phải để lại dấu vết gì cho trần gian; dấu vết đó không cần phải lớn lao vĩ đại, nhưng là dấu vết của tình yêu, hy vọng, lòng tin và công chính. Những gì chúng ta làm ở đời này ngoài những đặc tính đó, không những sẽ trở thành vô ích mà còn là án phạt nữa, cho nên, bao lâu sống ở trần gian, chúng ta phải hết sức cẩn thận để xây dựng sự nghiệp cho đời này và cả đời sau nữa.
     Một nhà kinh doanh giỏi là một người biết đầu tư vốn liếng và biết lợi dụng hoàn cảnh để đem lại lợi lộc và thành công. Sống ở trần gian, mỗi người cũng là một nhà kinh doanh được Thiên Chúa trao vốn liếng, thời giờ và hoàn cảnh, chúng ta phải biết đầu tư cho hợp tình hợp lý để đem lại lợi lộc và thành công cho hôm nay và mai sau. Chúng ta đang đầu tư thế nào ? lợi hay hại ? lời hay lỗ ? lợi xác nhưng thiệt hồn chăng ? được đời này mà không được đời sau chăng ? giả sử Chúa gọi chúng ta ra khỏi đời này ngay bây giờ chúng ta sẽ được thưởng hay bị phạt ? Chúng ta trả lời thế nào những câu hỏi đó ?

Thứ Năm, 29 tháng 11, 2012

Thứ Bảy sau Chúa nhật XXXIV Thường Niên (năm chẵn)


Tin Mừng                                Lc 21,34-36

34 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : "Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, 35 vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. 36 Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người."

Suy Niệm:
Tỉnh Thức Cầu Nguyện
Kết thúc diễn từ về ngày tận thế, Chúa Giêsu đưa ra hai thái độ sống cụ thể trong khi chờ ngày của Chúa. Thứ nhất là thái độ sống thanh thoát: "Các con phải đề phòng, chớ để lòng mình đắm say tửu sắc, đa mang sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu các con, vì ngày ấy sẽ ập tới mọi dân cư trên khắp mặt đất". Nói khác đi, Chúa muốn chúng ta sống sứ điệp và giá trị Tin Mừng, không để mình bị mê hoặc chạy theo các chủ trương duy vật, hưởng thụ, qua lo thu tích của cải như một bảo đảm an toàn cho cuộc sống mà lãng quên những nhu cầu tâm linh và các giá trị siêu việt của cuộc sống.
Ðể khỏi rơi vào tình trạng thiếu chuẩn bị trong ngày của Chúa, Chúa Giêsu nêu ra điều kiện tiên quyết, đó là tỉnh thức và cầu nguyện: "Các con phải tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có đủ sức thoát khỏi những điều sắp xẩy đến và đứng vững trước mặt Con Người". Cầu nguyện là nhìn nhận Chúa là tất cả, là đặt thánh ý Chúa trên hết. Ðồng thời, cầu nguyện là nhận biết mình yếu đuối và cậy trông vào ơn Chúa. Nhờ cầu nguyện, chúng ta sẽ có thái độ tỉnh thức trong đời sống thường ngày, sẽ nhạy bén với tiếng gọi của Chúa qua những biến cố cuộc sống để luôn tìm đẹp lòng Chúa.
Ngày mai chúng ta không biết sẽ ra sao, ngày cuối đời lại càng mù tịt. Xin Chúa cho chúng ta biết sống từng giây phút hiện tại, sao cho luôn được Chúa chúc lành và được tình thương Chúa che chở, để ngày Chúa đến sẽ là ngày hạnh phúc cho chúng ta.

Thứ Tư, 28 tháng 11, 2012

Hãy đi theo tôi (30.11.2012 – Thứ sáu – Thánh Anrê tông đồ)

Hãy đi theo tôi
Lời Chúa: Mt 4, 18-22
Khi ấy, Đức Giêsu đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em kia, là Simon, cũng gọi là Phêrô, và người anh là ông Anrê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. Người bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người. Ði một quảng nữa, Người thấy hai anh em khác con ông Dêbêđê, là ông Giacôbê và người em là ông Gioan. Hai ông này đang cùng với cha là ông Dêbêđê vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các ông. Lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người.
Suy nim:
Như một sự tình cờ, lúc đang đi dọc theo bờ hồ Galilê,
Đức Giêsu thấy bóng dáng các anh đánh cá quen thuộc.
Hẳn họ đã có lần nghe Ngài giảng và thấy Ngài chữa lành bệnh nhân.
Đức Giêsu yên lặng nhìn các anh làm việc.
Họ đang quăng lưới bắt cá hay ngồi trong khoang vá lưới với cha.
Cảnh tượng rất đời thường và ấm áp.
Đẹp biết mấy chuyện con người làm việc chung với nhau.
Sau này họ sẽ biết cách làm việc với nhau trên con thuyền Giáo Hội.
Chúa Giêsu hôm nay cũng thấy tôi.
Tôi thế nào, Ngài thấy tôi thế ấy.
Cái nhìn của Ngài không làm tôi bị tê liệt, nhưng cho tôi tự do.
Ngài chấp nhận trọn vẹn con người tôi, cả tội lỗi và yếu đuối.
Chẳng cần son phấn, tôi thu hút Ngài bằng cái mộc mạc của tôi.
Ngài gặp tôi hôm nay lúc tôi đang mải mê làm một việc gì đó.
Ngài gặp tôi giữa cái vất vả kiếm sống của đời thường.
Hạnh phúc cho người nào được thấy Thiên Chúa (Mt 5, 8),
và cũng thật hạnh phúc cho người nào được Thiên Chúa thấy.
Các anh hãy theo tôi”: đây là một lời mời dành cho mọi Kitô hữu.
Ơn gọi Kitô hữu khởi đi từ tiếng gọi của Thầy Giêsu.
Người Do Thái thường tầm sư học đạo,
còn ở đây, chính Thầy Giêsu đi chọn môn đệ cho mình (Ga 15, 16).
Ngài mời ta đi theo chính con người của Ngài,
chứ không phải theo một lý tưởng cao đẹp hay một dự án hấp dẫn.
Tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới con người.
Một cuộc đổi đời thực sự, từ lưới cá đến lưới con người.
Con người của mọi dân tộc là mối bận tâm của Thiên Chúa.
Theo Chúa Giêsu là chia sẻ nỗi thao thức của Ngài về nhân loại,
và đồng lao cộng khổ với Ngài trong sứ mạng cứu độ thế giới.
Simon và Anrê đã bỏ chài lưới, Giacôbê và Gioan bỏ thuyền và cha.
Sự từ bỏ nào cũng gây ít nhiều xót xa đau đớn.
Biển cả, sóng nước, thuyền bè, lưới cá, người cha, người vợ:
biết bao giá trị phải bỏ lại, những người tôi đã và vẫn còn yêu mến.
Từ bỏ chỉ khả thi nếu tôi gặp một giá trị cao hơn, một tình yêu lớn hơn.
Chúa không đòi mọi người phải sống đời tu, nhưng đòi phải từ bỏ mình.
Từ bỏ đơn giản là đặt Thiên Chúa lên trên mọi thụ tạo khác,
là chọn Giêsu trong giây phút hiện tại, là đón lấy cái bấp bênh.
Bốn anh ngư phủ đã lên bờ để đi theo một ông thợ mộc bỏ nghề.
Đời họ đã sang một trang mới.
Hôm nay Chúa vẫn đi ngang qua đời tôi như một sự tình cờ.
Ngài vẫn thấy, vẫn gọi, để tôi bỏ và đi theo.
Không thấy và gọi, thì cũng chẳng ai từ bỏ và đi theo.
Tiến trình này được lặp lại nhiều lần, làm nên hành trình Kitô hữu.
Hôm nay tôi mong theo Chúa hơn hôm qua, và ngày mai hơn hôm nay.

Thứ Ba, 27 tháng 11, 2012

Sắp được cứu chuộc (29.11.2012 – Thứ năm Tuần 34 Thường niên)

Sắp được cứu chuộc
Lời Chúa: Lc 21, 20-28
Khi ấy, Ðức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Khi anh em thấy thành Giêrusalem bị các đạo binh vây hãm, bấy giờ anh em hãy biết rằng đã gần đến ngày khốc hại của thành. Bấy giờ, ai ở miền Giuđê, hãy trốn lên núi; ai ở trong thành, hãy bỏ đi nơi khác; ai ở vùng quê, thì chớ vào thành. Thật vậy, đó sẽ là những ngày báo oán, ngày mà tất cả những gì đã chép trong Kinh Thánh sẽ được ứng nghiệm. Khốn thay những người mang thai và những người đang cho con bú trong những ngày đó! Vì sẽ có cơn khốn khổ cùng cực trên đất này, và cơn thịnh nộ giáng xuống dân này. Họ sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị đày đi khắp các dân các nước, và Giêrusalem sẽ bị dân ngoại giày xéo, cho đến khi mãn thời của dân ngoại. Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc.”
Suy nim:
Theo Josephus, một sử gia người Do Thái đáng tin cậy,
bốn quân đoàn của vị tướng Rôma là Titus
đã vây hãm thành phố Giêrusalem vào lễ Vượt Qua năm 70,
khiến người dân trong thành rơi vào cảnh đói khát cùng cực.
Ông kể chuyện một phụ nữ quê ở Pêrêa vì quá đói
đã túm lấy đứa con còn thơ dại, giết con và nướng để ăn.
Cũng theo sử gia này, quân Rôma đã dùng gươm
để giết hơn một triệu người ở Giêrusalem và Giuđê.
Những người Do Thái bị bắt làm tù binh là gần một trăm ngàn.
Ai có thể tưởng được điều khủng khiếp như vậy đã xảy ra
chỉ bốn mươi năm, sau khi Đức Giêsu nói những lời tiên báo.
Giêrusalem là thành trì vững chắc, nơi trú ẩn an toàn,
bây giờ lại là nơi nguy hiểm, cần phải tránh xa (c. 21).
Tai họa ập xuống trên phụ nữ mang thai và cho con bú (c. 23).
trên cả tội nhân lẫn trẻ thơ vô tội.
Thành đô đã bị bao vây, bị thiêu rụi, bị quân Rôma giày xéo.
Dân thành bị ngã gục, bị đi đày, phải tản mác khắp nơi.
Sự sụp đổ của thành đô đã là một biến cố trên đất Israel.
Nhưng trước khi Đức Giêsu ngự đến trên mây trời
như Con Người đầy quyền năng và vinh hiển (c. 27),
sẽ có những dấu lạ đáng sợ khác trên bầu trời và ngoài biển cả (c. 25).
Thánh Máccô nói đến hiện tượng mặt trời, mặt trăng mất sáng,
và các vì sao sa xuống từ trời (Mc 13, 24-25).
Thánh Luca nói đến cảnh biển gào, sóng thét.
Những điều đó làm muôn dân hoang mang, hồn xiêu phách lạc,
nhưng không làm các môn đệ hoảng hốt, âu lo.
Ngược lại họ mừng vui vì Đấng họ chờ đợi từ lâu nay đã đến.
“Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên” (c. 28).
Đứng thẳng để đón Đấng mà họ đã suốt đời thắp đèn chờ đợi.
Ngẩng đầu để mừng giây phút ơn cứu chuộc đã đến gần.
Chỉ khi Đức Giêsu phục sinh trở lại như Đấng xét xử quyền năng,
Ngài mới trọn vẹn hoàn thành Nước Thiên Chúa trên mặt đất.
Vào cuối năm phụng vụ, Lời Chúa nói với chúng ta về ngày tận thế.
Đó là ngày vừa đáng sợ, vừa chan chứa niềm vui,
ngày được gặp mặt Đấng chúng ta đã tin tưởng, mến yêu và hy vọng.
Người ta vẫn hay đoán già đoán non về ngày tận thế.
Nhiều người tưởng là năm 2000, gần đây có người lại nói là 2012.
Điều quan trọng là làm sao tôi có thể đứng thẳng, ngẩng đầu khi Ngài đến,
làm sao nhân loại trên trái đất này sẵn sàng ra nghênh đón Ngài
như đón Đấng Cứu Tinh mà họ nóng lòng chờ đợi.
Nếu ngày mai Ngài đến với cả thế giới hay đến với riêng mình tôi,
tôi có sẵn sàng chưa hay còn bị còng lưng, cúi đầu vì bao gánh nặng?
Mỗi người đều có ngày tận thế của mình.
Xin cho tôi được bình an khi ngày ấy đến mà không có điềm lạ nào báo trước.

Thứ Hai, 26 tháng 11, 2012

Một sợi tóc (28.11.2012 – Thứ tư Tuần 34 Thường niên)

Một sợi tóc
Lời Chúa: Lc 21, 12-19
 
Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: “Chính ta đây”, và: “Thời kỳ đã đến gần”; anh em chớ có theo họ. Khi anh em nghe có chiến tranh, loạn lạc, thì đừng sợ hãi. Vì những việc đó phải xảy ra trước, nhưng chưa phải là chung cục ngay đâu.” Rồi Người nói tiếp: “Dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có những trận động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có ôn dịch và đói kém; sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện. Nhưng trước khi tất cả các sự ấy xảy ra, thì người ta sẽ tra tay bắt và ngược đãi anh em, nộp cho các hội đường và nhà tù, và điệu đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy. Ðó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy. Vậy anh em hãy ghi lòng tạc dạ điều này, là anh em đừng lo nghĩ phải bào chữa cách nào. Vì chính Thầy sẽ cho anh em ăn nói thật khôn ngoan, khiến tất cả địch thủ của anh em không tài nào chống chọi hay cãi lại được. Anh em sẽ bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp. Họ sẽ giết một số người trong anh em. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu. Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình.”
 
Suy nim:
 
Lúc trời còn tối, ngày 16 tháng 11 năm 1989, tại nước El Salvador,
một nhóm người có vũ trang đã xâm nhập vào Đại Học Trung Mỹ.
Chúng đã giết sáu linh mục Dòng Tên và hai mẹ con người nấu ăn.
Giết xong chúng đã kéo xác ra ngoài vườn và làm những trò man rợ.
Các linh mục này đều là những nhà trí thức, có ảnh hưởng trong xã hội.
Họ muốn nói lên tiếng nói của người nghèo, chịu cảnh bất công,
muốn chấm dứt cuộc nội chiến kéo dài khiến hơn 70 ngàn người chết.
Họ đã phải trả giá bằng vụ thảm sát bất ngờ,
đã chết như những chứng nhân, những vị tử đạo thời mới.
Chuyện ấy đã xảy ra cách đây hai mươi năm rồi.
 
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói về những cuộc bách hại
xảy ra trước khi Ngài trở lại trong ngày tận thế.
Các môn đệ sẽ phải chịu những gì Thầy mình đã chịu.
Họ sẽ bị bắt, bị ngược đãi, bị tù đày, bị đem ra tòa đạo, tòa đời (c. 12).
Họ sẽ bị nộp bởi chính người thân, bị mọi người thù ghét,
và thậm chí bị giết hại (cc. 16.17).
Tất cả những gì các môn đệ phải chịu đều là vì danh Thầy (cc. 12. 17).
 
Chính tình yêu trung tín đối với Thầy và giáo huấn của Thầy
đã khiến bao Kitô hữu tự nguyện đón nhận khổ đau và cái chết.
Không phải chỉ chối Thầy cách công khai mới mang tội bất trung.
Không phải chỉ bước qua thập giá mới là phản bội.
Bất cứ khi nào chúng ta bước qua những giá trị ngàn đời của Kitô giáo,
như sự thật, sự sống, công bằng, bác ái, nhân phẩm, tự do, lương tâm,
khi ấy chúng ta chối bỏ Đức Kitô Giêsu.
Bất cứ khi nào chúng ta dám xả thân để sống cho những giá trị đó,
chúng ta đã làm chứng cho Ngài rồi.
Gioan Tẩy Giả đã chết vì nói sự thật mất lòng với Hêrôđê.
Maria Goretti đã chết vì muốn sống trong sạch.
Maximilien Kônbê đã xin chết thay cho người khác vì lòng bác ái.
Tất cả đều được Giáo Hội tôn kính như những vị tử đạo,
dù họ không chết vì tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu.
 
Đối với Đức Giêsu, giây phút đứng trước tòa là giây phút quan trọng.
Người môn đệ có cơ hội công khai làm chứng cho Thầy (c. 13).
Đức Giêsu không để họ một mình đối diện với sức mạnh của quyền uy.
Ngài hứa sẽ giúp họ trả lời những cáo buộc của tòa án (c. 15; Cv 6, 10).
Thế nên họ chẳng có gì phải xao xuyến, lo âu (c. 14).
Tòa án trở thành nơi làm chứng tuyệt vời của người môn đệ.
Điều quan trọng khi bị bách hại là phải kiên trì (c. 19).
Có nhiều kiểu hành hạ nhằm làm cho người môn đệ bỏ cuộc.
Nhưng một sợi tóc anh em cũng không bị mất (c. 18)
nghĩa là Chúa sẽ lo từng li từng tí cho môn đệ của mình.
Mạng sống của các môn đệ ở đời này có thể bị mất (c. 16),
nhưng nếu họ kiên trì và trung tín, họ sẽ giữ được nó ở đời sau.
Chúng ta cầu cho nhau được ơn kiên trì giữa thử thách của thời đại mới.
 

Chủ Nhật, 25 tháng 11, 2012

Anh em làm chứng cho Thầy (27.11.2012 – Thứ ba Tuần 34 Thường niên)

Anh em làm chứng cho Thầy
Lời Chúa: Lc 21, 5-11
Nhân có mấy người nói về Ðền Thờ được trang hoàng bằng những viên đá đẹp và những đồ dâng cúng, Ðức Giêsu bảo: “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.” Họ hỏi Người: “Thưa Thầy, vậy bao giờ các sự việc đó sẽ xảy ra, và khi sắp xảy ra, thì có điềm gì báo trước?” Ðức Giêsu đáp: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: “Chính ta đây”, và “Thời kỳ đã đến gần”; anh em chớ có theo họ. Khi anh em nghe có chiến tranh, loạn lạc, thì đừng sợ hãi. Vì những việc đó phải xảy ra trước, nhưng chưa phải là chung cục đâu.”
Rồi Người nói tiếp: “Dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có những trận động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có ôn dịch và đói kém; sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện.”
Suy nim:
Trong số 117 vị Tử Ðạo Việt Nam, được phong thánh năm 1988,
có một phụ nữ duy nhất, mẹ của 6 người con.
Ðó là bà Anê Lê Thị Thành, còn gọi là bà Ðê.
Trước khi là một anh hùng tử đạo,
bà đã là một người mẹ hiền gương mẫu.
“Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục các con.
Chính người dạy chúng tôi đọc chữ và học giáo lý,
sau lại dạy cách dự thánh lễ và xưng tội rước lễ.”
Ðó là lời khai của cô con gái út trước giáo quyền.

Nhà bà Ðê là nơi các linh mục trú ẩn.
Buổi sáng lễ Phục Sinh năm 1861,
quan Tổng Ðốc Nam Ðịnh cho quân bao vây làng của bà.
Bà Ðê bị bắt lúc đã 60 tuổi.
Bà bị đánh đập tra tấn, bị ép phải chối đạo,
bị lôi qua Thánh Giá, bị bỏ rắn độc vào người.
Khi con gái đến thăm bà trong nhà giam,
đau đớn vì thấy quần áo mẹ loang đầy vết máu,
bà đã an ủi con với một niềm lạc quan lạ lùng:
“Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy,
mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?”
Sau ba tháng chịu đủ mọi cực hình,
người phụ nữ ấy đã hiến đời mình cho Chúa.

Cuộc đời của vị thánh nữ tiên khởi của Việt Nam
là một sức nâng đỡ lớn cho chúng ta.
Thiên Chúa đã làm điều phi thường
nơi một người phụ nữ già nua, yếu  đuối.
Quan “Hùm Xám” tỉnh Nam Ðịnh cũng phải bó tay
trước sự yếu đuối kiên vững của bà.
Khôn ngoan và đơn sơ, can đảm chịu đau khổ,
bà thánh Ðê đã phó mặc cho Chúa đời mình.
Bà chẳng lo phải nói gì, phải làm gì trước tòa án,
vì sức mạnh của Thánh Thần ở với bà.

Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống vì đức tin,
dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.
Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu,
không đòi hy sinh mạng sống,
nhưng lại đòi hy sinh cả tương lai vững vàng ổn định.

Mỗi ngày, chúng ta thường bị đặt trước những chọn lựa,
trước thập giá của Ðức Giêsu,
y hệt như các vị tử đạo ngày xưa.
Có khi chúng ta đã bước qua thập giá, khi chọn mình,
đã chối Chúa bằng chính cuộc sống.
Càng có tự do, ta lại càng dễ sa sút đức tin.
Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những thụ tạo
gây ra những cuộc bách hại êm ả và khủng khiếp
mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện.
Ước gì chúng ta không để mất đức tin
được mua bằng giá máu của bao vị tử đạo,
và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy
cho hơn 80 triệu đồng bào trên quê hương.

Thứ Bảy, 24 tháng 11, 2012

Thứ Hai sau Chúa nhật XXXIV Thường Niên (năm chẵn)


Tin Mừng                                Lc 21,1-4

1 Khi ấy, Đức Giê-su ngước mắt lên nhìn, Người thấy những người giàu đang bỏ tiền dâng cúng của họ vào thùng tiền. 2 Người cũng thấy một bà goá túng thiếu kia bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm. 3 Người liền nói : "Thầy bảo thật anh em : bà goá nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết. 4 Quả vậy, tất cả những người kia đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ, mà bỏ vào dâng cúng ; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình."

Suy niệm: Chuyện bà goá bỏ vào thùng dâng cúng đền thờ “hai đồng tiền kẽm” với lời bình luận của Chúa Giêsu cho thấy quan điểm giàu-nghèo của Ngài. Đối với Ngài, con người chỉ giàu có thực sự khi cho đi tất cả những gì mình có để “làm giàu trước mặt Thiên Chúa” (Lc 12,21). Còn kẻ chỉ lo tích cóp tiền của cho riêng mình, sống ích kỷ lại là người nghèo hơn ai hết: nghèo tình người, nghèo công phúc. Trong xã hội còn lắm người giàu tiền bạc, của cải hơn bà goá ấy nhiều, nhưng không phải ai cũng như bà. Nếu tất cả đều biết xử sự theo cách bà ấy làm thì quan hệ giữa người với người sẽ trở nên tốt đẹp hơn biết bao; và một hành vi được Chúa đánh giá cao như thế thì có công phúc trước mặt Thiên Chúa biết chừng nào.

Mời Bạn: Cách đánh giá giàu-nghèo của Chúa không làm cho người nghèo tự ti đồng thời cũng cảnh báo người giàu đừng tự mãn. Mọi người đều có cơ hội trở nên giàu có thực sự trước mặt Thiên Chúa. Ngài xử sự đúng như điều mà ta vẫn nói với nhau: của ít lòng nhiều! Của cải bao nhiêu cũng là ít trước mặt Chúa, còn tấm lòng ta dâng cho Ngài có mở rộng bao nhiêu cũng không vừa!

Chia sẻ: Không ai nghèo đến nỗi chẳng có gì để cho, chỉ sợ mình không sẵn lòng mà thôi.

Sống Lời Chúa: Làm việc lành bao giờ cũng đáng trân trọng, nhưng đừng để tay trái biết việc tay phải làm. Có Chúa, Ngài biết tất cả.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin dạy con biết sống quảng đại. Lòng quảng đại sẽ giúp con biết cho đi bao nhiêu và cho đi cách nào.

Thứ Sáu, 23 tháng 11, 2012

ĐỨNG VỀ PHÍA SỰ THẬT (25.11.2012 – Chúa nhật 34 Thường niên; Đức Giêsu Kitô Vua vũ trụ)

ĐỨNG VỀ PHÍA SỰ THẬT
Lời Chúa: Ga 18, 33b-37
Khi ấy, Philatô trở vào dinh, cho gọi Ðức Giêsu và nói với Người: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?” Ðức Giêsu đáp: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?” Ông Philatô trả lời: “Tôi là người Do Thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?” Ðức Giêsu trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Nhưng nay Nước tôi không thuộc chốn này”.
Ông Philatô liền hỏi: “Vậy ông là vua sao?” Ðức Giêsu đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian vì điều này: đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”.
Suy nim:
Từ sau vụ nổ big-bang, vũ trụ được thành hình,
và càng ngày càng bành trướng.
Trái đất chỉ là một hạt bụi nhỏ xíu trong vũ trụ,
nhưng nó lại lớn lao vô cùng,
vì là hành tinh được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc.
Con Thiên Chúa đã ghi dấu chân mình trên mặt đất,
đã sống trọn phận người bên cạnh nhân loại anh em.
Mừng lễ Ðức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ,
chúng ta được mời gọi ngắm nhìn trái đất tròn.
Ðây là vũ trụ của hơn 7 tỉ người đang sống.
Vũ trụ này sẽ đi về đâu? Lịch sử này sẽ đi về đâu?
Tất cả sẽ được hội tụ và biến đổi nơi Ðức Kitô,
để rồi Ngài sẽ dâng lại tất cả cho Thiên Chúa Cha.
Tuy Ðức Giêsu không nói rõ mình là vua,
cũng không chịu để dân chúng tôn vương mình,
nhưng Ngài lại nói nhiều về Nước của Ngài.
Nước đó, Philatô chẳng có gì phải sợ.
Một nước không có quân đội để chiến đấu,
không có lãnh thổ trên bản đồ, không thuộc về thế gian.
Nhưng Nước đó lại có những công dân thực sự.
Bất cứ ai đứng về phía sự thật thì thuộc về Nước này.
Họ bắt gặp sự thật nơi lời chứng của Ðức Giêsu.
Họ đã nghe tiếng Ngài và theo Ngài tiến bước.
Có những người chưa biết Ðức Giêsu, nhưng đã ở rất gần Ngài.
Nước của Vua Giêsu là Nước của sự thật.
Sống theo sự thật chẳng bao giờ dễ dàng.
Kẻ trung thực thường thua thiệt, lại bị coi là dại dột.
Sự dối trá nhiều khi được coi là khôn ngoan.
Người ta dối trá một cách trơn tru, không chút áy náy.
“Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”.
Chúng ta không nghe được tiếng Chúa,
chỉ vì ta sợ sự thật, sợ nói thật, sợ sống thật,
như Philatô muốn giữ ghế ngồi hơn là cứu người vô tội.
Lương tâm bị băng hoại, lòng tin vào nhau bị đổ vỡ.
Cuối cùng chính chúng ta là nạn nhân của mình,
của một thế giới xây dựng trên những đồ giả.
Mừng lễ Ðức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ,
ta đặt mình trước một thế giới bề bộn bao vấn đề:
ô nhiễm môi trường, tăng dân số, aids, thất nghiệp, ma tuý,
mafia, tham nhũng, nghèo đói, lạc hậu, bất công...
Thế lực của sự dữ và tội ác có vẻ thắng thế,
ích kỷ, hận thù, bạo lực tung hoành khắp nơi.
Chúng ta không chỉ cầu xin cho Nước Chúa mau đến,
mà còn đưa tinh thần Ðức Kitô vào mọi cơ cấu trần gian:
chính trị, xã hội, nghệ thuật, giáo dục, thể thao, giải trí...
Càng làm cho sự thật và tình yêu thắng thế
thì Nước Chúa càng lớn dần lên
cho đến lúc thành tựu viên mãn vào ngày tận thế.
Xin Ðức Giêsu làm vua cả vũ trụ loài người
nhờ làm vua tiểu vũ trụ là cõi lòng từng Kitô hữu.

Thứ Năm, 22 tháng 11, 2012

Niềm Hy Vọng Lớn Lao (Ga 6, 37-40) (23/11) Thứ sáu sau Chúa Nhật 33 TN


Tin Mừng                                Ga 6,37-40

37 Khi ấy, Đức Giê-su nói với dân chúng rằng : "Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài, 38 vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi. 39 Mà ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. 40 Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết."
 Suy Niệm:
Những người đã qua đời như đi vào cõi huyền nhiệm, để lại bao nhung nhớ và cảm tình ngổn ngang trong lòng chúng ta. Cảm tình đó tìm được cơ hội bùng phát nhờ những câu kinh lời nguyện kèm theo những lễ nghi trong tháng các linh hồn.
Niềm tin cho phép chúng ta đi sâu vào cõi huyền nhiệm đó. Từ xa xưa, các tín hữu đã tìm được nguồn an ủi lớn lao khi biết người thân đang cần lời cầu nguyện và hi sinh để được giải thoát. Chết không phải là hết ! Sau cõi đời này cũng không phải chỉ có Thiên đàng và Hỏa ngục ! Ði vào cõi chết không phải là chấm dứt mọi liên hệ với trần gian. Niềm tin này thật lớn lao vì giúp ta tránh được những cái nhìn bi quan và cực đoan về số phận những người ra đi trước chúng ta.
Từ thế kỷ 11 đã có thánh lễ cầu hồn. Trước đó giáo dân đã có thói quen tưởng nhớ những người quá cố. Thế kỷ 3, các văn sĩ Kitô giáo như Tertuliano đã nói đến một nơi lưng chừng dành cho các tín hữu nghỉ ngơi chờ ngày chung thẩm. Ðồng thời cũng có nhiều người nghĩ các Kitô hữu đã khuất cũng cần thanh tẩy trước khi chiêm ngưỡng Thiên Nhan. Nhưng Giáo Hội Ðông Phương thường nhấn mạnh đến đặc tính của những linh hồn sống trong tình trạng "lưng chừng": họ khao khát sớm được chiêm ngưỡng Thiên Nhan. Trong khi đó, Giáo hội Công giáo thường chú trọng tới hình phạt trong nơi luyện ngục.
Tuy nhiên cả Ðông Phương và Roma đều tin tưởng lời cầu nguyện và việc lành của người sống giúp cho người quá cố thoát khổ hình luyện ngục. Niềm tin đó bắt nguồn từ mầu nhiệm hiệp thông. Nếu không có ngày lễ cầu hồn, tín điều các thánh thông công không được diễn tả trọn vẹn. Tín điều các thánh cùng thông công cho thấy các tín hữu còn sống có thể đóng góp vào việc giải thoát các linh hồn khỏi luyện ngục. Thật vậy, trong Ðức Kitô, tất cả các chi thể đều liên đới với nhau. Phụng vụ khiến Kitô hữu có thể đối diện với cái chết với niềm tin và hi vọng vì sự sống mới trong Ðức Kitô như Thiên Chúa đã hứa. Thật vậy, Ðức Kitô là niềm hi vọng của người sống và kẻ chết.
Niềm hi vọng ấy chỉ dành cho những ai yêu mến Thiên Chúa. Sống hay chết họ đều hiệp thông với Ðức Kitô và với nhau. Quả thực, "chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta." (Rm 5:5) Chính Thánh Thần phục sinh thân xác Ðức Kitô. Từ nay sự sống sẽ trỗi dậy trong toàn nhiệm thể, vì "Ðức Kitô đã chết vì chúng ta … Ðó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta." (Rm 5:8) Các linh hồn trong luyện ngục cũng là những chi thể Ðức Kitô. Họ cũng sẽ hưởng trọn vẹn tình yêu Thiên Chúa từ cái chết và phục sinh của Người.
An ủi biết chừng nào khi biết "Ðấng bênh vực tôi vẫn sống" (G 19:25) để giải thoát các linh hồn đang bị giam cầm trong luyện ngục. Người sống để nối kết các chi thể với nhau, để "hòa giải chúng ta với Thiên Chúa." (Rm 5:11) Cuộc hòa giải đó chỉ trọn vẹn khi tất cả "sống lại trong ngày sau hết." (Ga 6:40) Các linh hồn trong luyện ngục nôn nóng chờ đợi "ngày sau hết" đó trong niềm tin tưởng thánh ý Chúa Cha sẽ được thực hiện vì "tất cả những ai thấy người Con và tin tưởng vào người Con, thì được sống muôn đời." (Ga 6:40)
Sự sống đó khởi nguồn từ cái chết và sự phục sinh của Ðức Giêsu Kitô. Bởi đó, Kitô hữu không bao giờ dứt niềm hi vọng, dù phải đối đầu với tử thần, vì họ tin chắc sẽ được chia sẻ sự sống với Ðức Kitô. Có như thế, chúng ta mới thấy tất cả quyền năng củaThiên Chúa tình yêu đầy sáng tạo và hằng quan tâm đến Dân Người. Cái chết không phải là sức mạnh tử thần. Trái lại, trong cái chết của con người, tử thần phải đương đầu với Thiên Chúa hằng sống. Nếu tin, con người sẽ chứng kiến tất cả sự bất lực của tử thần. Thay vì thất vọng khi đi đến cuối đời, họ sẽ thấy bàn tay dịu dàng Thiên Chúa đưa họ vào một cuộc sống mới, cuộc sống vĩnh cửu, cuộc sống hoàn toàn cho Thiên Chúa. Một cuộc chuyển hóa nhẹ nhàng đem mọi người vào cõi chan hòa ánh sáng, niềm vui, bình an và vinh quang Thiên Chúa. Còn gì an ủi hơn khi từ giã trần gian đầy biến động để bước vào cõi vĩnh hằng ?
Bởi vậy, "cầu nguyện cho các linh hồn là một cơ hội suy tư về tương lai chúng ta và tưởng nhớ những người đã ra đi cõi thinh lặng ngàn thu. Ðây cũng là dịp tuyên xưng niềm tin vào sự sống lại như một thực tại nơi Ðức Giêsu và như một lời hứa cho chính vinh quang tương lai chúng ta nữa." (The New Dictionary of Sacramental Worship 1990:42) Không có sự sống lại, cuộc đời hoàn toàn vô nghĩa và những nỗ lực hôm nay trở thành số không. Do đó, càng cầu nguyện cho các linh hồn, càng thấm thía ý nghĩa cuộc đời và càng phải nỗ lực xây dựng cho cuộc phục sinh ngày mai ngay từ hôm nay.
 

Thứ Tư, 21 tháng 11, 2012

Thứ sáu sau Chúa Nhật 33 Thường Niên(23/11)


Tin Mừng                                Lc 19,45-48

45 Khi ấy, Đức Giê-su vào Đền Thờ, Người bắt đầu đuổi những kẻ đang buôn bán 46 và nói với họ : "Đã có lời chép rằng : Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp !"
47 Hằng ngày, Người giảng dạy trong Đền Thờ. Các thượng tế và kinh sư tìm cách giết Người, cả các thân hào trong dân cũng vậy. 48 Nhưng họ không biết phải làm sao, vì toàn dân say mê nghe Người.

Suy niệm: Việc tôn thờ Thiên Chúa lẽ ra phải hoàn toàn là việc thánh thiêng không thể có việc mua bán, đổi chác, hay trục lợi trong việc tế tự Thiên Chúa. Những đáng buồn là có một số người vì ham lợi đã làm cho việc tôn thờ Thiên Chúa đã bị nhiễm mùi thế tục và bị biến chất. Đức Giêsu đã bất bình với chuyện này nên Ngài quyết định thanh tẩy Đền Thờ qua hình thức đánh đuổi những kẻ mua bán ra khỏi nơi đó.
Tâm hồn của mỗi người chúng ta cũng là Đền thờ của Thiên Chúa. Chúng ta hãy lo thu xếp, dọn dẹp tâm hồn mình để nên xứng đáng là cung điện cho Thiên Chúa ngự trị. Đừng để những dục tình, lợi lộc trần gian làm ô uế tâm hồn và lương tâm ngay lành của chúng ta. Hảy trả lại cho Thiên Chúa những gì tốt đẹp vốn có ở nơi Người mà vì yêu thương Người đã ban tặng cho chúng ta "của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa, của Cêsar hãy trả cho Cêsar".

Thứ Ba, 20 tháng 11, 2012

Đức Giêsu khóc (22.11.2012 – Thứ năm Tuần 33 Thường niên)



Đức Giêsu khóc
Lời Chúa: Lc 19, 41-44
Khi đến gần Giêrusalem và trông thấy thành, Ðức Giêsu khóc thương mà nói: “Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi! Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được. Thật vậy, sẽ tới những ngày quân thù đắp luỹ chung quanh, bao vây và công hãm ngươi tư bề. Chúng sẽ đè bẹp ngươi và con cái đang ở giữa ngươi, và sẽ không để hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm.”
Suy nim:
Người ta có thể khóc vì nhiều lý do.
Khóc vì buồn thương, khóc vì tình yêu của mình bị từ chối.
Khóc vì tiếc nuối một điều tốt đẹp bị hủy hoại.
Một người đàn ông khóc là chuyện không thường xảy ra.
Chính vì thế chúng ta ngỡ ngàng khi thấy Đức Giêsu khóc.
Con Thiên Chúa nhập thể biết đến nỗi đau của phận người.
Giọt nước mắt của Ngài cho thấy Ngài thật sự có một trái tim.
Đức Giêsu khóc khi đến gần và trông thấy thành phố Giêrusalem.
Trong thành Giêrusalem có ngôi Đền thờ lộng lẫy (Lc 21, 5).
Đền thờ ấy là Đền thờ thứ hai được xây sau khi dân lưu đày trở về.
Còn Đền thờ thứ nhất do Salômôn xây, đã bị quân Babylon phá hủy.
Vua Hêrôđê Cả đã trùng tu và nới rộng Đền thờ thứ hai này.
Công việc sửa sang kéo dài từ năm 20 trước công nguyên,
đến năm 64 sau công nguyên mới hoàn tất.
Vào thời gian này, người Do Thái nổi dậy chống lại quân Rôma.
Vào lễ Vượt qua năm 70, thành phố bị vây hãm (c. 43).
Đền thờ bị thiêu hủy sau tám mươi tư năm tu sửa.
Đây là một bi kịch lớn mà Đức Giêsu đã linh cảm với nỗi đớn đau.
Bài Tin Mừng hôm nay
nằm ngay sau biến cố Đức Giêsu lên Giêrusalem lần cuối (Lc 19, 28).
Ngài biết đây là lần cuối, nên giữa bầu khí tung hô của dân chúng,
Đức Giêsu lại rơi vào nỗi đau buồn, xót xa.
Ngài sẽ là vị ngôn sứ phải chết ở trong thành này (Lc 13, 33).
Như mọi người Do Thái khác, Đức Giêsu quý thành phố và Đền thờ.
Thành phố Giêrusalem là thủ đô của đất nước.
Đền thờ là nơi mỗi năm Ngài lên đó dự các lễ lớn đôi ba lần.
Đây là nhà Cha của Ngài, là nhà cầu nguyện (Lc 2, 49; 19, 46).
Nhưng mọi điều tốt đẹp Ngài đang thấy, có ngày sẽ đổ vỡ tan hoang.
“Không để hòn đá nào trên hòn đá nào” (c. 44).
Thiên Chúa là Đấng đã đi thăm Dân Israel (Lc 1, 68; 7, 16; 19, 44).
Ngài thăm Dân Ngài qua Người Con là Đức Giêsu (Lc 1, 78).
Ngài đến thăm để đem ơn cứu độ, đem lại bình an (c. 42).
Hôm nay Thiên Chúa vẫn tiếp tục đi thăm nhân loại.
Ngài vẫn sai Con của Ngài đến với chúng ta để ban ơn bình an.
Nhưng con người hôm nay có thể khép lòng, và để lỡ cơ hội quý báu.
“Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1, 11).
Làm sao mỗi Kitô hữu nhận ra thời điểm Ngài đến thăm mình? (c. 44).
Thế giới Tây phương hôm nay đang có khuynh hướng loại trừ Thiên Chúa.
Họ nhân danh tự do tôn giáo để loại trừ tôn giáo ra khỏi đời sống xã hội.
Nhưng không có Trời thì ai ở được với ai.
Nhân loại bị kéo vào những cuộc chiến tranh, thù hận không lối thoát.
Hãy để Thiên Chúa đi vào đời bạn và chi phối những chọn lựa của bạn.
Chỉ trong Thiên Chúa mọi sự mới có nền tảng vững bền.
Nếu không, như Giêrusalem, chúng ta chỉ còn là những bức tường than khóc.