Powered By Blogger

Thứ Sáu, 31 tháng 8, 2012

Vào mà hưởng niềm vui (1.9.2012 – Thứ bảy Tuần 21 Thường niên)


Vào mà hưởng niềm vui
Lời Chúa: Mt 25, 14-30
Khi ấy, Đức Giêu nói với các môn đệ rằng: “Cũng như có người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ riêng của mình đến mà giao phó của cải mình cho họ. Ông cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tùy khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi. Lập tức, người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác. Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ.  Sau một thời gian lâu dài, ông chủ của các đầy tớ ấy đến thanh toán sổ sách với họ. Người đã lãnh năm yến tiến lại gần, đưa năm yến khác, và nói: “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm yến, tôi đã gây lời được năm yến khác đây”. Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm! Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành! Trong việc ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ đặt anh lên coi việc nhiều. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” Người đã lãnh hai yến cũng tiến lại gần và nói: “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai yến, tôi đã gây lời được hai yến khác đây”. Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm! Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành! Trong việc ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ đặt anh lên coi việc nhiều. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” Rồi người đã lãnh một yến cũng tiến lại gần và nói: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!” Ông chủ đáp: “Hỡi tên đầy tớ tồi tệ và biếng nhác! Ngươi đã biết ta gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, thì đáng lý ngươi phải gởi số bạc của ta cho các chủ ngân hàng, để khi ta đến, ta thu hồi của thuộc về ta cùng với số lời chứ! Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến. Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng.”
Suy nim:
Người ta vẫn hay có cái nhìn tĩnh và buồn về đời sống Kitô hữu.
Đó là một đời sống cam chịu, nhẫn nhục, cúi đầu vâng phục Ý Chúa,
một đời sống khổ đau vì phải bước theo Chúa Giêsu vác thánh giá.
Nhìn như thế đúng nhưng không đủ.
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một cái nhìn khác,
tươi tắn hơn nhiều, chủ động và tích cực hơn nhiều.
Thiên Chúa được ví như một ông chủ sắp đi xa.
Vì tin tưởng các đầy tớ của mình, nên khi vắng nhà (c. 14),
ông không ngại giao phó cho họ những món tiền rất lớn, tùy khả năng.
Người được năm yến, kẻ được hai, người được một (c. 15).
Mỗi yến bạc tương đương với sáu ngàn ngày công.
Hẳn các đầy tớ hiểu ý chủ muốn mình đầu tư sinh lợi.
Anh nhận được năm yến đã đi ngay lập tức và làm ăn với số vốn ấy.
Chúng ta không rõ anh đã đầu tư thế nào và bao lâu,
chỉ biết anh đã sử dụng cách hiệu quả những gì anh nhận được.
Sau một thời gian, tiền lời bằng số vốn bỏ ra.
Anh nhận được hai yến cũng vậy, cũng sinh lợi được hai yến khác.
Anh được một yến cũng đi,
nhưng là đi đào lỗ dưới đất để chôn giấu yến bạc (c. 18).
Anh không dám đầu tư vì sợ làm ăn lỗ lã.
Anh sợ số bạc lớn bị mất, nên anh muốn chôn giấu nó cho an toàn.
Khi ông chủ trở về để nghe báo cáo sổ sách của các đầy tớ,
ông đã khen hai anh đầy tớ vất vả làm ăn bằng những lời giống nhau:
“Khá lắm! Anh đúng là tôi tớ tốt lành và trung tín!
Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh.
Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh” (c. 21. 23).
Còn anh đầy tớ chôn giấu yến bạc dưới đất vì sợ hãi ông chủ,
đã bị chủ chê là đầy tớ xấu xa và biếng nhác.
Yến bạc của chủ còn nguyên chẳng hề là điều đáng tự hào.
Ông chủ ngạc nhiên vì tại sao anh lại không gửi tiền vào ngân hàng
để đồng vốn có thể sinh lợi (c. 27).
Anh bị tước mất yến bạc anh đã giữ kỹ, và tống vào chỗ tối tăm.
Một đầy tớ không sinh lợi từ số vốn được trao là một đầy tớ vô dụng (c. 30).
Mỗi Kitô hữu cũng là một người đầy tớ, một quản lý của Chúa,
được tin cậy giao phó, được yêu cầu đầu tư, được mong mỏi sinh lợi.
Sống đời Kitô hữu là chấp nhận dùng tất cả khả năng của mình (c. 15)
để làm cho những gì Chúa ban sinh lợi nhiều nhất.
Điều đó cần đến công sức, tính toán, sáng tạo, và nhất là tình yêu.
Yến bạc là khả năng và hoàn cảnh thuận lợi để ta làm việc cho Chúa.
Kitô hữu không phải là người thích an nhàn hay hưởng thụ.
Họ nỗ lực phấn đấu từng ngày để đời mình sinh hoa trái cho Chúa.
Ngày Phán xét, chúng ta sẽ bị xét xử dựa trên nỗ lực sinh lợi của mình.
Mỗi người chúng ta không rõ mình đã nhận bao nhiêu yến bạc.
Điều quan trọng là không được giấu đi, và vui vẻ tận dụng điều mình có.

Thứ Tư, 29 tháng 8, 2012

Vừa mang đèn, vừa mang dầu (31.8.2012 – Thứ sáu Tuần 21 Thường niên)


Vừa mang đèn, vừa mang dầu 
Lời Chúa: Mt 25, 1-13
Một hôm, Ðức Giêsu kể cho các môn đệ nghe dụ ngôn này: “Nước Trời cũng giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể. Trong mười cô đó, thì có năm cô dại và năm cô khôn. Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. Còn những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo. Vì chú rể đến chậm, nên các cô thiếp đi, rồi ngủ cả. Nửa đêm, có tiếng la lên: “Kìa chú rể, ra đón đi!” Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy, và sửa soạn đèn. Các cô dại nói với các cô khôn rằng: “Xin các chị cho chúng em chút dầu của các chị, vì đèn của chúng em tắt mất rồi!” Các cô khôn đáp: “Sợ không đủ cho chúng em và các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn”. Ðang lúc các cô đi mua, thì chú rể tới, và những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại. Sau cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến gọi: “Thưa Ngài, thưa Ngài! mở cửa cho chúng tôi với!” Nhưng Người đáp: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!” Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.”
Suy nim:
Chẳng ai nghĩ đi ăn sinh nhật là để chết.
Chẳng ai nghĩ mình sẽ chết vào ngày sinh nhật của mình.
Vụ cháy ở nhà hàng Hoàng Hôn đường Ðiện Biên Phủ,
nhắc cho ta về sự bất ngờ của cái chết.
Cái chết đến khi mọi người đang say ngủ,
lúc 3 giờ sáng ngày 17-10, sau bữa tiệc sinh nhật.
Chín người chết vì không thể ra khỏi căn nhà bốc cháy.
Ðoạn Tin Mừng hôm nay nhắc ta rằng Chúa đến bất ngờ,
như chú rể đến lúc nửa đêm.
Chúng ta phải sẵn sàng như năm cô phù dâu khôn ngoan,
hân hoan ra đón chú rể, tay cầm đèn thắp sáng.
Thật ra năm cô dại chẳng phải là hạng vô tích sự.
Chắc họ đã lo trang điểm cho mình.
Khi biết mình hết dầu, họ đã lo vay mượn.
Và khi bị từ chối, họ đã đi mua dầu giữa đêm khuya.
Lúc có đèn sáng, họ đã gõ cửa xin vào dự tiệc cưới.
Nhưng muộn quá!
“Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!”
Chẳng nên đổ lỗi cho chú rể đến chậm,
khiến đèn của mình hết dầu.
Chẳng nên trách móc các cô khôn ngoan,
vì họ cần có đủ dầu để thắp sáng cho tiệc cưới giữa đêm khuya.
Chỉ nên nhận mình đã chểnh mảng,
không mang dầu dự trữ.
Có đèn. Không đủ!
Ðèn cần phẳi sáng, sáng lúc Chúa đến bất ngờ.
Như thế cũng có nghĩa là phải luôn luôn sáng.
Mang danh là Kitô hữu. Không đủ!
Tham gia vào một số sinh hoạt tôn giáo. Không đủ!
Cần phải sống hết mình những đòi hỏi của Chúa.
Ðòi hỏi lớn nhất là yêu thương.
Trong Hội Thánh, vẫn có những cô khôn và cô dại,
có những người đèn đã hết dầu từ lâu...
Cần chăm chút cho ngọn đèn đời mình.
Cần nuôi dưỡng nó bằng thứ dầu của tình yêu bao dung,
của niềm hy vọng vững vàng, của niềm tin sắt đá.
Cần châm thêm dầu mỗi ngày...
Hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.
Tỉnh thức không phải là không ngủ...
Cả mười cô trinh nữ phù dâu đều đã thiếp ngủ.
Tỉnh thức không phải là suốt ngày đọc Lời Chúa,
nhưng là để Lời Chúa chi phối mình suốt ngày.
Chẳng ai biết lúc nào tận thế.
Chẳng ai biết giờ chết của mình.
Chẳng ai biết hôm nay Chúa hẹn mình ở đâu,
trong biến cố nào, nơi con người nào.
Chính vì thế phải tỉnh thức luôn, cả trong giấc ngủ.
Người ta biết mình bắt đầu tỉnh thức,
khi nhận ra mình đã mê muội.

Thứ Ba, 28 tháng 8, 2012

thứ tư/ 29/08/2012. Thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết

Cái chết của một tiên tri.
29/08 – Thứ tư.Thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết.
"Con muốn đức vua ban ngay cho con cái đầu của Gioan Tẩy Giả đặt trên đĩa".
 
Thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết
Sống cuộc đời nhiệm nhặt và can đảm, thánh Gioan Baotixita đã trở nên một tấm gương sáng cho những ai đang đổ máu chiến đấu vì danh Ðức Kitô, đồng thời ngài đã thực hiện được hai con đường thánh thiện mà người tín hữu phải noi theo.
Nếu ngày sinh nhật của ngài cùng với tâm tình thống hối để bước vào mùa vọng là như một lời loan ban ơn cứu độ đã gần đến trong vui mừng và hân hoan, thì ngày hôm nay, cuộc tử nạn của ngài đã nói lên đặc tính của một vị tiên tri hoàn toàn đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa. "Ngài đã không sợ hãi, lớn tiếng trước mặt các vua chúa. Ngài đã hiến mạng sống cho công bình và chân lý". Ngài đã tự xóa nhòa trước Thiên Chúa khi thời giờ đã điểm và ngài đã trở nên nhân chứng hào hùng nhất cho niềm tin nơi Ðấng Tối Cao.
 
Lời Chúa: Mc 6, 17-29
Khi ấy, Hêrôđê đã sai đi bắt Gioan và giam ông trong ngục: nguyên do tại Hêrôđia, vợ của Philipphê anh vua mà vua đã cưới lấy. Vì Gioan bảo Hêrôđê: "Nhà vua không được phép chiếm lấy vợ anh mình". Phần Hêrôđia, nàng toan mưu và muốn giết ông, nhưng không thể làm gì được, vì Hêrôđê kính nể Gioan, biết ông là người chính trực và thánh thiện, và giữ ông lại. Nghe ông nói, vua rất phân vân, nhưng lại vui lòng nghe.
Dịp thuận tiện xảy đến vào ngày sinh nhật Hêrôđê, khi vua thết tiệc các quan đại thần trong triều, các sĩ quan và những người vị vọng xứ Galilêa. Khi con gái nàng Hêrôđia tiến vào nhảy múa, làm đẹp lòng Hêrôđê và các quan khách, thì vua liền nói với thiếu nữ ấy rằng: "Con muốn gì, cứ xin, trẫm sẽ cho", và vua thề rằng: "Con xin bất cứ điều gì, dù là nửa nước, trẫm cũng cho". Cô ra hỏi mẹ: "Con nên xin gì?" Mẹ cô đáp: "Xin đầu Gio-an Tẩy Giả". Cô liền vội vàng trở vào xin vua: "Con muốn đức vua ban ngay cho con cái đầu Gioan Tẩy Giả đặt trên đĩa". Vua buồn lắm, nhưng vì lời thề và vì có các quan khách, nên không muốn làm cho thiếu nữ đó buồn. Và lập tức, vua sai một thị vệ đi lấy đầu Gioan và đặt trên đĩa. Viên thị vệ liền đi vào ngục chặt đầu Gioan, và đặt trên đĩa trao cho thiếu nữ, và thiếu nữ đem cho mẹ.
Nghe tin ấy, các môn đệ Gioan đến lấy xác ông và mai táng trong mồ.
 
SUY NIỆM 1: Cái chết của một tiên tri.
Qua lệnh truyền của một bạo chúa, một chiếc gươm gieo, một chiếc đầu rơi trong ngục tối. Ðó là những diễn tiến đã kết thúc cuộc đời của thánh Gioan Tẩy Giả, một biến cố mà Giáo Hội mời gọi chúng ta tưởng niệm hôm nay.
Chúng ta đã thấy một lời thề thiếu khôn ngoan, một quan niệm thiển cận về danh dự của một bạo chúa cũng như lòng hận thù của một hoàng hậu lăng loàn đã đưa Gioan Tẩy Giả vào cái chết. Nhưng đây là cái chết đã nâng ngài lên cao trên đài danh vọng, danh vọng của các vị tiên tri đích thực, vì Gioan cũng bị đau khổ, giam cầm và chết vì lời mình rao giảng.
Gioan Tẩy Giả cũng đã tự ví mình là "tiếng kêu trong xa mạc: Hãy dọn đường lối cho ngay thẳng" và ngài đã đóng trọn vai trò này qua việc tích cực rao giảng và làm Phép Rửa thống hối. Tích cực vì ngài đã dám vạch mặt chỉ tên những vấp phạm của tất cả mọi người, không nể nang, không khiếp sợ, kể cả những tội lỗi của các vua chúa là những người nắm toàn quyền sanh sát thời bấy giờ, cụ thể là tội loạn luân của vua Hêrôđê và hoàng hậu Hêrôđiađê.
Qua đó, Gioan Tẩy Giả đã sống để nói lên sự thật và đã chết để bảo vệ sự thật: sự thật về hiện tình của xã hội, sự thật về thực trạng của từng cá nhân và sự thật về chính mình. Gioan tuyên bố rõ ràng ngài không phải là Ðấng Cứu Thế, nhưng chỉ là người được kêu gọi để đóng vai trò Tiền Hô chuẩn bị cho ngày Ðấng Cứu Tinh sẽ đến.
Mọi Kitô hữu chúng ta cũng được kêu mời để đáp lại tiếng gọi. Và mặc dù không ai có thể tái diễn vai trò của thánh Gioan Tẩy Giả, nhưng mọi Kitô hữu phải tiếp diễn sứ mệnh của ngài trong mọi hoàn cảnh mình đang sống. Ðó là sứ mệnh làm chứng nhân cho Chúa Giêsu.
(Trích trong ‘Lẽ Sống’ của R. Veritas)

SUY NIỆM 2: Vị Thánh Can Đảm Và Cương Quyết

Những trang Tin Mừng của thánh sử Marcô nói về Gioan Tẩy Giả quả thực gây ấn tượng mạnh cho những ai tìm gương một vị thánh can đảm dám nói lên sự thật, mặc dầu khi biết rằng nói lên điều mình phải nói sẽ nhận lại hậu quả không lường trước: “Vị Thánh đó là Gioan Baotixita, vị ngôn sứ kiên cường không bao giờ sợ chết”. Phúc Âm của thánh Marcô 6, 14 viết: “Vua Hêrôđê nghe biết về Đức Giêsu, vì Người đã nổi danh. Có kẻ nói: “Đó là ông Gioan Tẩy Giả từ cõi chết chỗi dậy, nên quyền làm phép lạ mới tác động nơi ông. “Kẻ khác nói: “Đó là ông Êlia”. Kẻ khác nữa lại nói: “Đó là một ngôn sứ như một trong các ngôn sứ”. Vua Hêrôđê nghe thế liền nói: “Ông Gioan, ta đã cho chém đầu, chính ông đã chỗi dậy!” (Mc 6, 14-16).
Những câu Tin Mừng của thánh Marcô chúng ta vừa nghe trên đây minh chứng: “Vua Hêrôđê đang lo âu về sự hiện diện của Chúa Giêsu và cho thấy sự tàn ác của một cường bạo Hêrôđê đã đang tâm truyền lệnh chém đầu Gioan Tẩy Giả vì Người dám nói lên sự thật: Vua không được lấy vợ của anh Ngài” (Mc 6, 18).
Đọc đoạn Tin Mừng 6, 17-29 của thánh Marcô trong ngày lễ kính nhớ thánh Gioan Tẩy Giả chúng ta thấy thật chua xót và mỉa mai. Cái chua xót bởi vì chỉ với một lời hứa với đứa con gái riêng của người vợ loạn luân của mình bà Hêrôđia (Mc 6, 23). Vua sẵn sàng cho lệnh chém đầu Gioan Tẩy Giả. Cái chua xót càng dâng cao khi Vua Hêrôđê cho thị vệ chém đứt đầu Gioan Tẩy Giả và đặt trên mâm theo lời xúi giục của bà Hêrôđia (Mc 6, 24-25). Sự việc càng mỉa mai hơn khi Vua vừa tỉnh vừa say và để hồn mình mê ly theo điệu vũ của đứa con gái của bà Hêrôđia (Mc 6, 22). Đối với chúng ta đọan Tin Mừng của thánh Marcô 6, 26 càng làm chúng ta ngao ngán vì con người dâm ô, bạo tàn và chà đạp sự thật, chà đạp công lý và vượt trên cả pháp luật của đất nước mà Hêrôđê trị vì: “Nhà Vua buồn lắm, nhưng vì lời thề, và khách dự tiệc, nên không muốn thất hứa với con gái Hêrôđia”.
Một lệnh truyền của một bạo Chúa trong lúc say sưa chè chén với bọn bá quan văn võ và các thân hào miền Galilê trong ngày sinh nhật của mình (Mc 6, 21). Một lời hứa dựa trên cảm tính, hết sức thô bạo và coi thường luật pháp của mình, Hêrôđê đã làm một việc hết sức tàn nhẫn, giết chết một vị ngôn sứ vô tội để thỏa mãn thú tính đê hèn của mình. Cái chết của Gioan Tẩy Giả đã là một lời cảnh tỉnh tất cả những ai quyết định thiếu khôn ngoan, thiển cận, ích kỷ, đê hèn chỉ nghĩ tới mối lợi đê tiện của cá nhân mình mà quên đi việc lớn lao hơn: “đại nghĩa”. Thánh Gioan Tẩy Giả đã chết đi nhưng sự ra đi của Ngài được nâng cao trên đài danh vọng, danh vọng của những vị ngôn sứ đích thực, những ngôn sứ dám nói lên sự thật, vì Gioan Tẩy Giả cũng đã chịu cầm tù, đau khổ trong tù ngục, và chết để làm chứng cho những lời rao giảng của mình.
Thánh Gioan Tẩy Giả đã sống hoàn toàn đúng nghĩa của một vị ngôn sứ chân chính, đích thực, Ngài đã hoàn toàn đáp trả lại lời mời gọi yêu thương của Thiên Chúa: “Ngài đã không sợ hãi, lớn tiếng trước mặt các Vua Chúa. Ngài đã hiến mạng sống cho công bình và chân lý”. Thánh Gioan Tẩy Giả đã vạch mặt chỉ tên mọi người sống bê tha, tội lỗi. Lời rao giảng sám hối và phép rửa cải tà qui chánh, cải hoá nội tâm của Ngài đã nói lên một sự thực muôn đời: “Tất cả đều phải sám hối và ăn năn”. Thánh nhân đã không chùn bước trước những thế lực mạnh nhất lúc đó là Hêrôđê. Ngài đã can đảm nói lên việc Hêrôđê cướp vợ của anh mình là Philíp, nàng Hêrôđia… Sự can đảm và cương quyết của Ngài đã bị cường bạo đè bẹp bằng lời hứa thật đê hèn và thô bạo. Nhưng cái chết của thánh Gioan Tẩy Giả đã minh chứng cho chân lý ngàn đời: “Sự thật sẽ giải phóng tất cả”.
Gioan Tẩy Giả đã chết đi để bảo vệ cho sự thật, minh chứng cho Chúa Giêsu: “Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14, 6).
Gioan Tẩy Giả chỉ là vị  ngôn sứ dọn đường cho Chúa Cứu Thế: “Tôi chỉ là tiếng kêu trong hoang địa, để dọn đường cho Chúa đến” (Mc 1,23) và khi Đấng Thiên Sai đến, thánh nhân xác định rõ ràng: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3, 30). Thánh Gioan Tẩy Giả đã trở nên chứng nhân tuyệt vời và hoàn hảo nhất nơi Đức Kitô Giêsu.
Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin cầu bầu cho chúng con trước ngai toà Chúa để niềm tin của chúng con được nâng cao hầu chúng con luôn sẵn sàng đáp trả lại lời mời gọi của Chúa: “làm chứng nhân cho Chúa Giêsu trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời”. Amen.
Lm Nguyễn Hưng Lợi

SUY NIỆM 3: Lễ thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết

Thánh Gioan tẩy giả là người anh họ của Đức Chúa Giêsu. Thân mẫu ngài là thánh nữ Êlizabeth và thân phụ ngài là ông Zacaria. Chương đầu tiên của Tin mừng theo thánh Luca thuật lại biến cố sinh nhật tuyệt vời của thánh Gioan. Và Tin mừng theo thánh Marcô, nơi chương thứ 6, các câu 14-29, kể lại những chi tiết tàn bạo về cái chết của Gioan tẩy giả.
Vua Hêrôđê lấy vợ của anh mình là bà Hêrôđia. Gioan nói cho Hêrôđê biết điều ấy là sai, nhưng Hêrôđê và Hêrôđia không muốn nghe và giữ giới luật của Thiên Chúa. Họ chỉ muốn làm theo ý riêng mình. Và Gioan tẩy giả đã phải trả giá cho lòng tốt của ngài! Tuy nhiên, thánh nhân không thể hành động theo cách khác được. Ngài không im lặng trước tội lỗi và bất công. Sứ mệnh của Gioan là mời gọi người ta cải hối cuộc đời; và ngài mong muốn cho hết thảy mọi người được ơn giao hòa cùng Thiên Chúa.
Hêrôđia đã giữ mối hận thù đối với Gioan. Và khi dịp thuận tiện xảy đến, bà đã ra tay sắp đặt để Gioan bị chém đầu. Gioan đã phải chấp nhận những hậu quả nghiệt ngã cho việc giảng dạy chân lý Phúc âm.
Thánh Gioan tẩy giả rao giảng phép rửa sám hối, chuẩn bị cho người ta đón nhận Đấng Mêsia. Ngài đã làm phép rửa cho Chúa Giêsu trong dòng sông Giođan và được hưởng kiến niềm vui vì sứ mệnh công khai của Chúa Giêsu đã khởi sự. Gioan tẩy giả đã khích lệ các môn đồ của mình đi theo Đức Chúa Giêsu. Ngài biết rằng danh Chúa phải tỏa sáng ra, còn danh mình phải lu mờ đi. Trong chương thứ nhất Phúc âm theo thánh Gioan, thánh Gioan tẩy giả nhận mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa, chỉ thức tỉnh người ta hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng mà thôi! Thánh nhân mời gọi mọi người hãy sẵn sàng để chuẩn bị đón nhận Đấng Mêsia. Sứ điệp của Gioan tẩy giả phải chăng cũng là sứ điệp của mỗi người chúng ta?
Chúng ta hãy nài xin thánh Gioan tẩy giả giúp chúng ta luôn sẵn sàng để đón nhận Chúa Giêsu ngự đến trong cuộc sống của mình.
 
SUY NIỆM 4: Thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết
Bài tường thuật của Mác-cô về cái chết của Thánh Gioan Tẩy giả rất rõ ràng và dễ hiểu. Ta cần ghi nhớ 2 điều:
- Gioan đã chết vì can đảm nói sự thật, theo đúng chức năng ngôn sứ của mình.
- Cái chết của Gioan có nhiều nét tiên báo cái chết của Chúa Giêsu, vị ngôn sứ tiêu biểu: chết do can đảm sống sứ mạng của mình, chết do ác tâm của con người, chết trong sự thương tiếc của các môn đệ.
1. Trước hết, ta hãy nhìn vào Hêrôđê:Một con người vẫn còn lương tâm (“vua nể sợ Gioan vì biết ông là người công chính thánh thiện; vua che chở ông. Khi nghe Gioan nói, nhà vua rất phân vân nhưng lại cứ thích nghe”), nhưng rồi lại không can đảm làm theo tiếng lương tâm của mình.
Văn hào Chateaubriand của Pháp vào thế kỷ 19 đã viết về lương tâm con người như sau: “Con sư tử sau khi giết và ăn thịt con mồi có thể nằm lăn ra ngủ, nhưng con người không thể ngủ yên sau khi giết hại một người đồng loại của mình”.
Thi hào Victor Hugo trong bài thơ “Lương tâm” đã mô tả tâm trạng vô cùng đau thương của Cain sau khi đã giết em mình là Abel: “Cho dẫu Cain có đi đâu, cho dẫu ông có đào một huyệt sâu trong lòng đất để trú ẩn, ánh mắt lương tâm cũng không bao giờ buông tha cho ông”.
Con người có phẩm giá cao cả vì con người có lương tâm. Lương tâm chính là ánh mắt yêu thương của Thiên Chúa không ngừng dõi theo con người để mời gọi thôi thúc con người vươn lên. Thảm trạng đau thương nhất của cá nhân cũng như của xã hội chính là tiếng nói của lương tâm bị bóp nghẹt. Xét cho cùng, thảm trạng ấy cũng đồng lõa với việc loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống. Khi ánh mắt yêu thương của Thiên Chúa không còn nhìn xuyên qua tâm hồn con người nữa, thì đó là lúc con người đang dãy chết.
2. Ta nhìn tiếp đến bà Hêrôđia:Một người đàn bà hoàn toàn để cho dục tình lôi cuốn. Vì dục tình, bà đã loạn luân. Vì thế, khi Gioan vạch tội bà, bà không ngại tìm dịp giết Gioan để không ai còn ngăn cản được cộc sống loạn luân của mình nữa.
Bà Hêrôđia đã làm những điều mà có lẽ ai trong chúng ta cũng lên án. Thế nhưng, xét cho kỹ thì trong thiên hạ cũng chẳng thiếu gì những người như thế. Không phải chỉ là loạn luân mà còn biết bao nhiêu tội ác khác nhiều khi còn tệ hơn nữa.
Tại một xứ Hồi giáo nọ, có người đàn ông bị vua ra lệnh treo cổ vì ăn trộm thức ăn của người khác. Như thường lệ, trước khi bị xử, tội nhân được nhà vua cho phép xin một ân huệ. Kẻ từ tội liền xin nhà vua:
- Tâu bệ hạ, xin cho thần được chồng một cây táo. Chỉ trong một đêm thôi, hạt giống sẽ nảy mầm, mọc thành cây và có trái ăn tức khắc. Đây là một bí quyết mà cha thần đã truyền lại cho thần. Thần tiếc là khi thần chết đi rồi, bí quyết này sẽ không truyền lại cho hậu thế được.
Nhà vua truyền chuẩn bị mọi sự để sáng hôm sau người tử tội sẽ biểu diễn chồng táo. Đến giờ hẹn, trước mặt vua và các quan văn võ, tên trộm đào một cái lỗ nhỏ và nói:
- Chỉ có người nào chưa hề ăn trộm của người khác mới trồng được hạt giống này. Vì tôi đã lỡ ăn trộm nên không trồng được.
Nhà vua tin lời, nên quay sang nhìn tể tướng. Sau một lúc do dự, vị tể tướng thưa:
- Tâu bệ hạ, thần nhớ lúc còn niên thiếu thần cũng đã có lần lấy của người khác. Thần cảm thấy không đủ điều kiện trồng hạt táo này.
Nhà vua đảo mắt nhìn quanh các quan văn võ đang có mặt. Ông nghĩ may ra quan thủ kho trong triều là người nổi tiếng trong sạch có thể đủ điều kiện. Nhưng quan thủ kho cũng lắc đầu từ chối và tuyên bố với mọi người rằng ông cũng đã có lần gian tham trong chuyện tiền bạc.
Bấy giờ người tử tội mới chua xót lên tiếng:
- Các ngài là những kẻ quyền thế cao trọng, không thiếu thốn điều gì. Vậy mà các ngài không thể trồng được hạt táo này, chỉ vì các ngài cũng đã có lần lấy của người khác. Còn tôi, một con người khốn khổ, chỉ lỡ lấy thức ăn của người khác ăn cho đỡ đói, thế mà các ngài lại kết án treo cổ tôi.
Nghe thế, nhà vua và cả triều thần như xốn xao trong lương tâm. Ông bèn ra lệnh phóng thích người ăn trộm.
3. Ta hãy nhìn nàng Salômê:một người có tài mà không có đức. Cô đã dùng tài múa nhảy của mình để đòi phần thưởng là cái đầu của một vị ngôn sứ.
Tài năng của con là những nén bạc Chúa trao để cho con sử dụng mà làm việc tốt phụng sự Chúa và phục vụ mọi người. Phục vụ chứ không khai thác để thỏa mãn những đam mê hay vơ vét vào cho mình. Chỉ khi nào, con người biết phục vụ thì lúc đó họ mới thấy cuộc đời của mình đậm đà ý nghĩa.
Dương Chấn, người đất Quan Tây đời nhà Hán, làm quan Thái Úy, tính tình thanh liêm, chánh trực. Khi đang làm Thứ Sử, ông có tiến dẫn Vương Mật làm Lệnh Doãn huyện Xương Ấp.
Một hôm, trời tối đi ngang qua Xương Ấp, Dương Chấn nghỉ lại đó một đêm. Vương Mật lén đem 10 lượng vàng đến để đền ơn thuở trước. Dương Chấn thấy vậy, trách Vương Mật:
- Ta biết tài ngươi, mà ngươi không biết được lòng ta.
Vương Mật cố năn nỉ:
- Đêm hôm khuya khoắt, không có một ai hay biết, ngài sợ gì?
Dương Chấn nghiệm mặt đáp:
- Sáng thì có trời đất biết, tối thì có quỷ thần soi biết, trong có ta biết, ngoài có ngươi biết. Chỗ hay biết có nhiều như vậy, sao ngươi gọi là không ai biết?
Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta biết sống tốt đối với mọi người để cho lương tâm của chúng ta lúc nào cũng được thanh thản và bình an.
 
SUY NIỆM 5: Thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết
Có những cái chết để lại cho đời niềm thương nhớ khôn nguôi. Có những sự ra đi làm cho con người thương nhớ, nhắc nhớ tên người chết mãi mãi không ngơi. Có những cái chết khiến người khác trề môi, phỉ nhổ. Chết là trở về nơi cũ. Chết là ra đi. Chết là trở về với Thiên Chúa, Đấng tạo dựng và tác sinh. Cái chết của thánh Gioan tẩy Giả, Giáo Hội mừng kính hôm nay khiến nhân loại phải ghi nhớ, khiến nhiều người thương tiếc, nhưng cũng không khỏi nguồn rủa sự điên rồ, ngạo nghễ và dại gái, khôn nhà dại chợ của Hêrôđê, một vị vua tàn ác và thiếu tư cách làm người.
Một cái đầu, một sự trả giá vô biên
- Hêrôđê đã đi vào con đường tội lỗi. Sự dại gái, khôn nhà, dại chợ của Hêrôđê đã khiến vị vua này trở nên ngông cuồng điên dại. Sống trong tội lỗi,tâm hồn của Hêrôđê đã trở nên mù quáng, tối tăm. Ở trong bóng tối, Hêrôđê đã không còn biết phân biệt đâu là phải, đâu là trái. Ông đã hành động tùy tiện việc nước, đã ăn chơi, chè chén trác táng. Ông không còn biết nhận ra sự thật. Số là Hêrôđê đã cướp vợ của ngay người em mình. Sự loạn luân không thể tha thứ, đã làm cho Gioan Tẩy Giả phải lên tiếng quở trách nặng lời hành động vô luân của Hêrôđê và Hêrodias, vợ loạn luân của Hêrôđê. Đúng như lời Kinh Thánh nói: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng…” (Ga 1,6-7).
- Gioan không phải là ánh sáng, nhưng Gioan tới để minh chứng về ánh sáng. Vì chứng minh cho Chúa Giêsu là sự thật, là ánh sáng. Gioan đã không bao giờ chịu khuất phục trước những việc chướng tai gai mắt của con người, của xã hội đương thời và của nhân loại. Gioan đã có lần nói: “Có Đấng đến sau ông và ông không xứng đáng cởi giây dép của Ngài”. Gioan quả thực đã tới trần gian để dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Làm công tác dọn đường, Gioan đã sống đích thực sứ mạng của vị tiên tri. Ngôn sứ phải nói lên sự thật và không bao giờ sợ nguy hiểm cho dù công tác của vị ngôn sứ luôn gặp sự hiểm nguy. Để làm chứng cho Đấng cứu thế, Ngài đã nói công khai với mọi người khi họ lầm tưởng Gioan là Đức Kitô: “Người phải lớn lên,còn tôi phải nhỏ lại”. Gioan đã lớn lên trong sự minh chứng cho sự thật. Chống lại hành động loạn luân và dâm dật của đôi dâm phụ Hêrôđê và Hêrodias. Gioan Tẩy Giả đã phải chấp nhận cái bi đát nhất của cuộc đời ngôn sứ của mình: cái chết. Hêrôdias vì không chấp nhận sự thật, không chịu nổi lời quở trách của vị tiên tri. Nên đã căm thù tìm cơ hội khử trừ vị ngôn sứ đầy uy tín. Với sự nhảy múa cuồng nhiệt nhân ngày sinh nhật, Hêrodiađê đã làm ngây ngất vua Cha. Cái đầu,vẫn là sự căm tức ngông cuồng của Hêrôdias. Đầu của vị ngôn sứ Gioan Tẩy Giả đã nằm gọn trong chiếc dĩa trước mặt Hêrôđê.
Lời chứng đáng giá nhất của ngôn sứ Gioan Tẩy Giả
- Dù biết rằng mình sẽ phải chấp nhận cái bi đát nhất của cuộc đời, Gioan Tẩy Giả vẫn nói lên tiếng nói bất khuất của vị ngôn sứ. Mọi tiên tri đều phải trả giá cho lời chứng của mình. Gioan Tẩy Giả đã sống anh dũng, can trường với lời nói của mình.Cái đầu phải trả là giá nặng nề và đáng nguyền rủa nhất của vị ngôn sứ sau cái chết chịu đóng đinh nơi thập giá đối với người Do Thái lúc đó. Gioan Tẩy Giả đã tự xóa nhòa mình để cho Đấng cứu độ lớn lên trong lịch sử nhân loại.Lời chứng và cái chết của Ngài, đã nói lên sự thật muôn đời là Gioan đã hoàn toàn đáp trả hoàn toàn lời mời gọi của Thiên Chúa: “Ngài không sợ hãi,lớn tiếng trước mặt các vua chúa. Ngài đã hiến mạng sống cho công bình và chân lý”.
(Lm Nguyễn Hưng Lợi)
 

Thứ Hai, 27 tháng 8, 2012

Đầu Gioan Tẩy giả (29.8.2012 – Thứ tư. Thánh Gioan Tẩy giả bị trảm quyết)

Đầu Gioan Tẩy giả 
Lời Chúa: Mc 6, 17-29
Hồi ấy, vua Hêrôđê sai đi bắt ông Gioan và xiềng ông trong ngục. Lý do là vì vua đã lấy bà Hêrôđia, vợ của người anh là Philípphê, mà ông Gioan lại bảo: “Ngài không được phép lấy vợ của anh ngài!” Bà Hêrôđia căm thù ông Gioan và muốn giết ông, nhưng không được. Thật vậy, vua Hêrôđê nể sợ ông Gioan vì biết ông là người công chính thánh thiện; vua che chở ông. Khi nghe ông nói, nhà vua rất phân vân, nhưng lại cứ thích nghe. Một ngày thuận lợi đến: nhân dịp mừng sinh nhật của mình, vua Hêrôđê mở tiệc thết đãi bá quan văn võ và các thân hào miền Galilê. Con gái bà Hêrôđia vào biểu diễn một điệu vũ, làm cho nhà vua và khách dư tiệc vui thích. Nhà vua nói với cô gái: “Con muốn gì thì cứ xin, ta sẽ ban cho con.” Vua lại còn thề: “Con xin gì, ta cũng cho, dù một nửa nước của ta cũng được.” Cô gái đi ra hỏi mẹ: “Con nên xin gì đây?” Mẹ cô nói: “Ðầu Gioan Tẩy Giả.” Lập tức cô vội trở vào đến bên nhà vua và xin rằng: “Con muốn ngài ban ngay cho con cái đầu ông Gioan Tẩy Giả, đặt trên mâm.” Nhà vua buồn lắm, nhưng vì lời thề, và khách dự tiệc, nên không muốn thất hứa với cô. Lập tức, vua sai thị vệ đi và truyền mang đầu ông Gioan tới. Thị vệ ra đi, chặt đầu ông ở trong ngục, bưng đầu ông trên một cái mâm trao cho cô gái, và cô gái trao cho mẹ. Nghe tin ấy, môn đệ đến lấy thi hài ông và đặt trong một ngôi mộ.
Suy nim:
Ngày sinh nhật của một người lại dẫn đến cái chết của một người khác.
Nếu sự kiện xảy ra đúng như truyền thống mà Máccô nhận được và ghi lại
thì thật là khủng khiếp.
Ai có thể tưởng tượng nổi chuyện trong bữa tiệc sinh nhật của Hêrôđê,
một cô bé dám bưng mâm, trên có cái đầu vừa bị chặt của một người,
máu còn chảy ròng ròng, mắt đang nhắm hay mở?
Cô bưng và vui vẻ trao cho mẹ cô.
Mẹ cô sẽ bưng và trao cho ai cái đầu của Gioan, người mà bà căm ghét?
Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho ta một số kinh nghiệm của Hêrôđê.
Trước hết là kinh nghiệm bị giằng co giữa cái tốt và cái xấu.
Hêrôđê Antipas đã bắt ông Gioan tẩy giả và xiềng ông trong ngục.
Lý do vì Gioan đã cản trở cuộc hôn nhân sai trái của ông với Hêrôđia.
Dầu vậy Hêrôđê vẫn biết Gioan là người công chính thánh thiện,
vẫn sợ ông và che chở ông khỏi sự trả thù của Hêrôđia (cc. 19-20).
Hêrôđê còn lương tâm khi ông thích nghe Gioan nói, dù rất bối rối khi nghe.
Kế đến là kinh nghiệm về sự thiếu chín chắn của Hêrôđê khi thề hứa.
Cái gì đã xui khiến ông nói câu dại dột này với cô bé Salômê:
“Con xin gì ta cũng cho, dù một nửa nước của ta cũng được” (c. 23)?
Bầu khí cuồng nhiệt của bữa tiệc sinh nhật, hay điệu vũ đẹp mê hồn,
hay rượu đã ngà ngà say, hay muốn chứng tỏ mình đầy quyền lực?
Hay sự cộng hưởng của mọi yếu tố trên?
Có những lời nói vội vã mà sau đó ta phải hối tiếc và trả giá.
Cuối cùng là kinh nghiệm về sự mất tự do trước khi quyết định.
Khi cô bé xin cái đầu của Gioan, Hêrôđê hẳn đã sửng sốt ngỡ ngàng.
Ông buồn hết sức vì mình đã lỡ thề hứa như vậy (c. 26).
Ông có thể rút lại lời đã nói không? Dĩ nhiên là có.
Nhưng nỗi sợ đã khiến ông không dám làm.
Sợ từ chối cô bé, làm cho cô buồn và mẹ cô nổi giận,
sợ bị mang tiếng là nuốt lời trước mặt bá quan văn võ.
Nói chung ông sợ mất danh dự của mình, mất thiện cảm của người khác.
Bởi vậy, dù Hêrôđê thấy việc giết Gioan là điều sai trái,
ông vẫn không dám xin rút lại lời thề thiếu suy xét của mình.
Cần can đảm để giữ lời hứa, nhưng có khi cần can đảm hơn để không giữ.
Danh dự hão của Hêrôđê được mua bằng máu của một vị ngôn sứ lớn.
Hêrôđê đã can dự vào cái chết của Gioan.
Ông chịu áp lực từ khách dự tiệc và mẹ con Hêrôđia.
Philatô đã can dự vào cái chết của Đức Giêsu.
Ông này chịu áp lực từ dân chúng và các thượng tế.
Cả hai ông đều không có tự do, không có can đảm để tha cho người vô tội.
Cả hai ông đều nghĩ đến mình, cái ghế của mình, danh dự của mình.
Quyền lực được sử dụng như bạo lực, khiến người lành phải chết oan.
Chúng ta xin cho mình luôn có tự do, để mọi quyết định phù hợp với ý Chúa.

Chủ Nhật, 26 tháng 8, 2012

Bên trong, bên ngoài (28.8.2012 – Thứ ba Tuần 21 Thường niên)

Bên trong, bên ngoài
Lời Chúa: Mt 23, 23-26
Khi ấy, Đức Giêsu khiển trách các kinh sư và người Pharisêu rằng:“Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công bình, lòng nhân và thành tín. Phải làm các điều này mà không được bỏ các điều kia. Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà. Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện trộm cắp và vô độ. Hỡi người Pharisêu mù quáng kia, hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch.”
Suy nim:
Đức Giêsu đã từng nói về tám Mối Phúc trong Bài Giảng trên núi.
Trong chương này, Ngài sẽ nói với các kinh sư và nhóm Pharisêu bảy lần:
“Khốn cho các ngươi!”
Đây không phải là lời chúc dữ cho bằng là lời trách than, buồn tiếc,
vì những sự giả hình, che đậy nơi một số nhà lãnh đạo Do thái giáo.
Nhưng giả hình không phải chỉ là bệnh của một số kinh sư ngày xưa.
Nó là bệnh của những Kitô hữu trong Hội Thánh của Mátthêu sau năm 70.
Và nó cũng là bệnh của những Kitô hữu thuộc thế kỷ hai mươi mốt.
“Khốn cho các ngươi!” là một lời cảnh báo đối với chính bản thân tôi.
Bệnh được nhắc đến trong lời Khốn cho thứ tư (c. 23)
là bệnh quá tập trung vào điều phụ thuộc mà bỏ quên điều cốt yếu.
Có một số người Pharisêu bày tỏ sự đạo đức của mình
qua việc nộp thuế thập phân về những thứ rau lặt vặt họ trồng trong vườn.
Ba thứ rau thơm: bạc hà, thì là, rau húng, đúng ra không phải tính thuế,
vì chỉ phải nộp thuế về hoa lợi của vụ mùa, của vườn cây ăn trái thôi.
Nhưng có người đã nộp thuế về mọi thứ rau cỏ trong vườn (Lc 11, 42).
Thuế thập phân chỉ đòi nộp một phần mười sản phẩm nông nghiệp làm được,
để giúp việc thờ phượng Chúa trong Đền thờ và các người làm việc tại đó.
Đức Giêsu không cản chuyện nộp thuế về những điều lặt vặt (c. 23).
Ngài chỉ tiếc là những chuyện nặng ký hơn trong Lề Luật
như công lý, lòng nhân và thành tín, lại bị bỏ quên (c. 23).
Ba điều này đều được các ngôn sứ nhắc nhở (Is 1, 17; Hs 6, 6; Hb 2, 4).
Ngôn sứ Mikha đã viết một câu nổi tiếng (Mk 6, 8):
“Đức Chúa đòi anh em điều gì nếu không phải là sống theo công lý,
mến chuộng lòng nhân và khiêm hạ đi với Thiên Chúa của anh em.”
Có thể thái độ đạo đức giả bắt nguồn từ thói háo danh và sợ khó.
Nộp thuế dễ được người ta thấy hơn
và cũng khỏi phải hoán cải nơi bề sâu của lòng mình.
Tập trung vào những cái lặt vặt để khỏi phải áy náy về chuyện hệ trọng.
Làm tốt một chuyện nhỏ, nhưng lại làm hỏng một chuyện rất lớn.
Bệnh được nhắc đến trong lời Khốn cho thứ năm (c. 25)
là bệnh quá coi trọng cái bên ngoài mà coi thường cái bên trong.
Một số người Pharisêu loay hoay với chuyện lau sạch bên ngoài chén đĩa.
Họ sợ mình trở nên ô uế nếu sử dụng đồ chưa được rửa kỹ.
Tiếc thay, họ không để ý đủ đến sự nhơ uế bên trong tâm hồn.
Mà đó mới là thứ nhơ uế thật sự đáng quan tâm.
Có nguy cơ là sự sạch sẽ bên ngoài nhằm che đậy sự nhơ uế bên trong,
và đánh lừa cái nhìn của người khác, khiến họ lầm tưởng.
Thật ra trở về với lòng mình để nhận ra những ô nhơ, thật là điều khó.
Rửa tay trước khi ăn, rửa bát đĩa trước khi dùng, là điều dễ hơn nhiều.
Trở vào lòng mình, ta dễ bắt gặp bao tham lam, gian dối, thèm muốn vô độ.
Những điều ấy ta không muốn nhìn nhận có nơi mình.
Đức Giêsu mời chúng ta tìm kiếm sự tinh tuyền bên trong trước đã,
rồi mới để ý đến cái sạch sẽ bên ngoài sau (c. 26).
Xin Chúa cho chúng ta đừng bị đui mù, nhưng được sáng mắt (cc. 24. 26),
để biết phân biệt cái chính, cái phụ, cái trong, cái ngoài.

Thứ Bảy, 25 tháng 8, 2012

Đạo đức giả (27.8.2012 – Thứ hai Tuần 21 Thường niên)


Đạo đức giả 
Lời Chúa: Mt 23, 13-22
Khi ấy, Đức Giêsu nói với các kinh sư và người pharisêu rằng: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người pharisêu giả hình! Các người khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người cũng không để họ vào. Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người pharisêu giả hình! Các người nuốt hết tài sản của các bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ, cho nên các người sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn. Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người pharisêu giả hình! Các người rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các người lại làm cho họ đáng xuống hỏa ngục gấp đôi các người. Khốn cho các người, những kẻ dẫn đường mù quáng! Các người bảo: ‘Ai chỉ Ðền Thờ mà thề, thì có thề cũng như không; còn ai chỉ vàng trong Ðền Thờ mà thề, thì bị ràng buộc’. Ðồ ngu si mù quáng! Thế thì vàng hay Ðền Thờ là nơi làm cho vàng nên của thánh, cái nào trọng hơn? Các người còn nói: ‘Ai chỉ bàn thờ mà thề, thì có thề cũng như không; nhưng ai chỉ lễ vật trên bàn thờ mà thề thì bị ràng buộc’. Ðồ mù quáng! Thế thì lễ vật hay bàn thờ là nơi làm cho lễ vật nên của thánh, cái nào trọng hơn? Vậy ai chỉ bàn thờ mà thề, là chỉ bàn thờ và mọi sự trên bàn thờ mà thề. Và ai chỉ Ðền Thờ mà thề, là chỉ Ðền Thờ và Ðấng ngự ở đó mà thề. Và ai chỉ trời mà thề, là chỉ ngai Thiên Chúa và cả Thiên Chúa ngự trên đó mà thề.”
Suy nim:
Trong Bài Giảng trên núi, Đức Giêsu đã nói đến Các Mối Phúc.
Ngài chúc mừng những ai thuộc về Nước Trời bằng các lời Phúc cho.
Còn trong chương 23 của Tin Mừng Mátthêu,
Đức Giêsu lại 7 lần dùng lối nói Khốn cho,
khi nói với giới lãnh đạo Do Thái giáo là các kinh sư và nhóm Pharisêu.
Đức Giêsu không phải là người đầu tiên dùng lối nói khó chịu này.
Các ngôn sứ thời xưa như Amốt hay Isaia (Am 6, 1; Is 5, 8-24)
cũng đã lắm khi dùng lối nói này để tố cáo những người quyền thế.
Mục đích của các ngôn sứ là vạch trần những sai phạm của họ,
và cảnh báo cho mọi người biết mà tránh xa.
Đức Giêsu đã nói như một vị ngôn sứ.
Khi nói khốn cho, Ngài không có ý nguyền rủa hay kết án ai,
cho bằng nói lên sự đau xót, thậm chí giận dữ đến độ trách phạt.
“Khốn cho ngươi, hỡi Khoradin! khốn cho ngươi, hỡi Bétsaiđa!”
Đức Giêsu đã nói như thế với các thành phố từ chối Ngài (Mt 11, 21).
“Khốn cho kẻ nào nộp Con Người, thà nó đừng sinh ra thì hơn” (Mt 26, 24).
Đây không phải là một lời chúc dữ cho Giuđa,
hay kết án anh phải đời đời hư mất.
Đúng hơn đây diễn tả một tiếc nuối xót xa về tội của người môn đệ.
Vào thời thánh Mátthêu viết sách Tin Mừng, từ sau năm 70,
có một sự xung đột nghiêm trọng giữa các Kitô hữu gốc Do Thái
với những nhà lãnh đạo Do Thái giáo lúc bấy giờ.
Bài Tin Mừng hôm nay phản ánh sự căng thẳng đó.
Các vị kinh sư và những người pharisêu đầy quyền lực
không muốn đồng bào của mình tin vào một ông Giêsu bị đóng đinh.
Ai tin sẽ bị trục xuất khỏi hội đường (x. Ga 9, 22).
Như thế họ đã khóa cửa Nước Trời để chẳng ai vào được, kể cả họ (c. 13).
Các vị kinh sư và nhóm Pharisêu hăng say trong việc truyền giáo.
Họ muốn làm cho dân ngoại trở thành Dân Chúa.
Tiếc thay, sau khi đã vào đạo rồi, những người tân tòng này
có thể trở nên cứng nhắc vì nệ luật, và rơi vào thói giả hình.
Họ “trở thành con cái của hỏa ngục gấp đôi các ông” (c. 15).
Đức Giêsu cũng tố cáo sự phân biệt quá chi li về giá trị những lời thề.
Đối với Ngài, thề nhân danh Đền thờ hay vàng trong Đền thờ,
nhân danh bàn thờ hay lễ vật trên bàn thờ (cc. 16-20),
thì cũng chẳng khác gì thề nhân danh chính Thiên Chúa (cc. 21-22).
Tất cả lời thề đều phải được giữ như nhau, đều ràng buộc như nhau.
Những lời tố giác của Đức Giêsu đối với giới lãnh đạo Do Thái giáo
vẫn đặt câu hỏi cho chúng ta thời nay.
Làm sao để tôn giáo mở đường cho con người gặp gỡ Thiên Chúa,
chứ không khép lại hay gây cản trở?
Làm sao để người tân tòng thực sự trở thành con cái Nước Trời?
Làm sao để chúng ta khỏi sa vào những chi li thái quá của luật lệ?
Những lời của Đức Giêsu mời gọi chúng ta nhìn lại mình và thay đổi.

Thứ Sáu, 24 tháng 8, 2012

LỜI BAN SỰ SỐNG (26.8.2012 – Chúa nhật 21 Thường niên, năm B)


LỜI BAN SỰ SỐNG 
Lời Chúa: Ga 6, 54a.60-69
Khi nghe Ðức Giêsu tuyên bố: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời”, nhiều môn đệ của Người liền nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” Nhưng Ðức Giêsu tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, Người bảo các ông: “Ðiều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống. Nhưng trong anh em có những kẻ không tin”.
Quả thật, ngay từ đầu, Ðức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. Người nói tiếp: “Vì thế, Thầy bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho”.
Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa.
Vậy Ðức Giêsu hỏi Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” Ông Simon Phêrô liền đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Ðấng Thánh của Thiên Chúa”.
Suy nim:
Chẳng nên ngạc nhiên nếu có lúc đức tin gặp khủng hoảng.
Cả lịch sử Cựu Ước đong đưa giữa tin và không tin.
Khi Ðức Giêsu đến, người ta phải đứng trước một lựa chọn:
tin hay không tin vào Lời Ngài, vào con người Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy
một kinh nghiệm về khủng hoảng đức tin nơi chính các môn đệ.
Kinh nghiệm ấy thật gần gũi với con người hôm nay.
Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?
Ðó là phản ứng của các môn đệ ngày xưa
khi nghe Thầy Giêsu vén mở căn tính của Thầy.
Thầy khẳng định mình từ trời mà xuống (Ga 6,38),
và Thầy sẽ trở lại nơi Thầy đã ở trước kia (c.62),
sau khi hiến mình chịu chết cho nhân loại (c.51)
và nuôi nhân loại bằng chính máu thịt mình (c.53).
Hôm nay chúng ta vẫn có thể thấy chúng chướng tai.
Mầu nhiệm Nhập thể, mầu nhiệm Tử nạn của Con Thiên Chúa,
bí tích Thánh Thể, mầu nhiệm Chúa về trời:
đó vẫn là và mãi mãi là những mầu nhiệm khôn dò.
Phải yêu mến mới hiểu được, mới chấp nhận được.
Hôm nay vẫn có câu Lời Chúa bất ngờ làm ta choáng váng,
vì chướng tai, chướng cả với suy nghĩ và tình cảm của ta.
Lời Chúa đòi tôi đi xa hơn
và bắt tôi điều chỉnh lại mối tương quan đã có với Chúa.
Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Ngài nữa.
Họ đã đi với Ngài một thời gian,
đã tin và đã trở thành môn đệ.
Nhưng họ không thể đi tới cùng cuộc phiêu lưu này.
Trở nên môn đệ hay trở nên một Kitô hữu
không phải là một bảo đảm chắc chắn
mình sẽ trung tín mãi mãi với Ðức Kitô.
Trở nên môn đệ là bước vào cuộc phiêu lưu,
là khám phá ra một Ðức Kitô luôn luôn mới,
là để Ngài từ từ đưa ta đi sâu vào mầu nhiệm hơn.
Cuộc phiêu lưu nào cũng có chút rủi ro,
cũng đòi chút liều lĩnh,
vì đây là cuộc phiêu lưu của tình yêu, của lòng tin.
Ðã có những môn đệ không tin và bỏ đi.
Ngay trong nhóm ở lại cũng có kẻ phản bội.
Ðể khỏi bỏ cuộc, cần bỏ mình...
Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai?
Ðại diện Nhóm Mười Hai, Phêrô bày tỏ thái độ ở lại.
Không phải vì ông và các bạn hiểu được lời Thầy Giêsu,
nhưng vì họ tin vào con người của Thầy,
tin Thầy là Ðấng Thánh của Thiên Chúa,
Ðấng đã cho dân ăn no nê, Ðấng đã đi trên biển.
Lòng tin này khiến họ chấp nhận cả những lời chướng tai.
Lời chướng tai là lời đem lại sự sống đời đời.
Nhiều bạn trẻ hôm nay cô đơn, nhưng không biết đến với ai.
Hãy cùng nhau đến với và ở lại bên Thầy Giêsu,
Ngài sẽ không làm chúng ta thất vọng.
Cầu nguyn:

Thứ Năm, 23 tháng 8, 2012

Là anh em với nhau (25.8.2012 – Thứ bảy Tuần 20 Thường niên)


Là anh em với nhau
Lời Chúa: Mt 23, 1-12
Một hôm, Ðức Giêsu nói với dân chúng và các môn đệ Người rằng: “Các kinh sư và các người pharisêu ngồi trên tòa ông Môsê mà giảng dạy. Vậy, những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ; nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “rápbi”. Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là “rápbi”, vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Ðức Kitô. Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.
Suy nim:
Nửa sau của bài Tin Mừng hôm nay
có thể làm chúng ta bị sốc.
Ðức Giêsu bảo ta đừng để ai gọi mình là thầy,
vì chỉ có một Thầy, một vị lãnh đạo là chính Ngài;
cũng đừng gọi ai là cha,
vì chỉ có một Cha là Thiên Chúa trên trời.
Vậy mà chúng ta vẫn gọi nhiều vị trong Hội Thánh
là cha, là Ðức Thánh Cha,
là giáo phụ, thượng phụ, viện phụ...
Chúng ta có làm sai lời Chúa dạy không?
Ta có phải hiểu theo nghĩa đen lời của Ðức Giêsu không?
Hội Thánh sơ khai đã không hề hiểu theo nghĩa đen.
Thánh Phaolô đã coi mình là cha sinh ra các tín hữu,
đã gọi họ là con (1Cr 4,14-17; Gl 4,19).
Hội Thánh cũng có những thầy dạy (Cv 13,1; 1Cr 12,28),
và những vị lãnh đạo (Cv 15,22; Rm 12,8)
Vậy đâu là điều Ðức Giêsu muốn nhắn nhủ chúng ta?
Chắc chắn Ngài không hề muốn phá bỏ
những cơ cấu cần thiết cho thân thể Hội Thánh,
Ngài cũng không loại bỏ phẩm trật và quyền hành.
Ngài chỉ muốn chúng ta đừng quên:
mọi quyền bính trong Hội Thánh
đều bắt nguồn từ Thiên Chúa và phải quy về Thiên Chúa.
Nếu có ai làm thầy, làm người lãnh đạo,
thì vì họ được chia sẻ quyền làm Thầy của Ðức Giêsu.
Nếu họ được gọi là cha,
thì vì họ được chia sẻ quyền làm Cha của Thiên Chúa.
Dù có chức vụ hay chức vị gì trong Hội Thánh,
tôi cũng không được quên chân lý này:
còn tất cả anh em đều là anh em với nhau,
con một Cha trên trời.
Chỉ có một vị Thầy là Ðức Giêsu.
Nhưng Thầy Giêsu lại sống như bạn của các môn đệ,
như anh em với họ (Ga 15,14; Mt 12,49-50),
và nhất là như tôi tớ phục vụ họ (Mt 20,28).
Ðức Giêsu mãi mãi là gương cho các nhà lãnh đạo.
Quyền lãnh đạo chính là để phục vụ con người.
Phần đầu của bài Tin Mừng cho thấy sự giả hình
của một số người pharisêu, có quyền giảng dạy Lề Luật.
Giả hình là không làm điều mình dạy người khác,
là dễ dãi với chính mình,
nhưng khắt khe với tha nhân.
Giả hình là biến việc thờ phượng Chúa thành thờ mình,
làm việc tốt để người ta thấy và thán phục.
Khi nhìn khuôn mặt của người pharisêu giả hình,
tôi thấy tôi: háo danh, khoa trương, ích kỷ,
dám “đốc” chứ không dám làm...
Có những đoạn Tin Mừng làm chúng ta nhức nhối,
vì mở cho chúng ta những chân trời xa,
cho chúng ta thấy những điều cần làm, phải làm,
nhưng chưa làm.